Triều đại phong kiến nào ở Việt Nam phải đường đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh

[Bqp.vn] - Triều đại nhà Nguyễn được bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm [anh rể] tâu với vua Lê Anh Tông cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Quân đội nhà Nguyễn được tính từ khi lực lượng vũ trang tập đoàn phong kiến các chúa Nguyễn cát cứ ở phía nam cho đến khi nhà nước phong kiến triều Nguyễn bị lật đổ trong cách mạng tháng Tám năm 1945.

Quân đội Nguyễn trải qua hai thời kỳ tổ chức và xây dựng.

Thời kỳ thứ nhất [1558 - 1777]: Khi Nguyễn Hoàng [chúa Tiên] mang quân đi trấn thủ Thuận Hóa và kết thúc lúc Nguyễn Phúc Thuần [Định Vương] bị tử trận trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ở Long Xuyên.

Ban đầu, quân đội đi theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có khoảng 3.000 người. Từ năm 1600, được xây dựng theo hướng quân đội của một nhà nước phong kiến. Lực lượng vũ trang nhà Nguyễn lúc này gồm có: bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Lực lượng bộ binh và thủy binh làm lực lượng bảo đảm cho cơ động với một đội binh thuyền khoảng 200 thuyền chiến và nhiều thuyền vận tải chở quân và lương thực, lực lượng chiến đấu chính là bộ binh.

Quân số thường trực có khoảng 40 nghìn người, khi chiến sự xảy ra [trong nội chiến Trịnh - Nguyễn] quân đội Nguyễn lên tới 100 nghìn người.

Hệ thống tổ chức Quân đội Nguyễn gồm có: Dinh, cơ, đội, thuyền.

Trang bị, ngoài vũ khí truyền thống như quân đội các thời trước, quân đội Nguyễn đã được trang bị một số loại vũ khí mới như hỏa pháo, súng hỏa mai, quả nổ ném [tạc đạn]… tự sản xuất dưới sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha.

Quân Nguyễn đã 7 lần giao chiến lớn với quân của chúa Trịnh và phần lớn đã tan rã trước quân khởi nghĩa Tây Sơn trong những năm 1772 - 1777.

Thời kỳ thứ hai [1778 - 1945]: Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, những năm đầu quân Nguyễn chỉ còn lại một bộ phận ít ỏi ở đồng bằng Nam Bộ, do Nguyễn Anh cầm đầu. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc [một cha cố đạo Thiên chúa giáo] và người Pháp, Nguyễn Ánh tổ chức lại lực lượng vũ trang của mình [trong đó có cả quân đánh thuê], chống lại nhà Tây Sơn và giành thắng lợi vào năm 1802.

Nguyễn Ánh lên ngôi vua và lấy niên hiệu Gia Long, quân đội Nguyễn được xây dựng theo mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Quân đội nhà Nguyễn trong thời kỳ này trải qua hai giai đoạn khác nhau, ứng với hai thời kỳ của vương triều Nguyễn. Giai đoạn đầu là quân đội của một vương triều độc lập tự chủ, giai đoạn sau là quân đội của một quốc gia phong kiến bị mất quyền tự chủ, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nghĩa thực dân Pháp đô hộ.

Giai đoạn 1 [1802 - 1883], Quân đội nhà Nguyễn có cơ cấu tổ chức như các triều đại trước nó, gồm các lực lượng bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, pháo binh. Cơ cấu tổ chức và hệ thống chỉ huy khá hoàn chỉnh.

Quân đội Nguyễn chia làm hai bộ phận chính quy, một bộ phận đóng ở kinh đô gọi là Vệ binh, có nhiệm vụ chính là bảo vệ Kinh thành Phú Xuân [Huế]. Hệ thống tổ chức và biên chế cơ bản gồm có:

- Doanh biên chế 5 vệ;

- Vệ biên chế 10 đội, đứng đầu vệ là Vệ úy;

- Đội biên chế 5 thập, đứng đầu đội là Suất đội;

- Thập biên chế 10 ngũ, do Chánh đội trưởng chỉ huy;

- Ngũ gồm 5 người, do Ngũ trưởng chi huy

Vệ binh quân Nguyễn có khoảng 40 nghìn người. Trong lực lượng Vệ binh lại được chia làm 3 loại: Thân binh [hậu cận của vua và bảo vệ cấm thành], gồm 1 doanh và 4 vệ độc lập; Cấm binh làm nhiệm vụ quân cơ động và bảo vệ Kinh thành gồm 6 doanh và một số vệ, đội độc lập như những “binh chủng chuyên môn, kỹ thuật”: tượng binh, kỵ binh, thủy binh; Giản binh hay Tinh binh gồm một số vệ và đội thuộc các phủ, huyện, nha…

Vệ binh thường tuyển những người Đàng Trong, đến năm 1885 thì lực lượng này tan rã, chỉ còn lại một số nhỏ gọi là Thân binh để hầu cận các vua của triều Nguyễn từ sau khi nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng quân Pháp xâm lược.

Cơ binh là lực lượng đóng giữ các tỉnh, lộ, trấn [một số tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… cón có các vệ thuộc lực lượng Cấm binh do quan tỉnh trực tiếp chỉ huy song lệ thuộc vào các doanh ở kinh đô]. Cơ binh tổ chức theo hệ thống:

- Doanh đứng đầu là quân đề đốc;

- Liên cơ đứng đầu là quan lãnh binh;

- Cơ [tương đương vệ] đứng đầu là chưởng cơ hay quản cơ;

- Dưới cơ là các tổ chức đội, thập, ngũ.

Đội quân Cơ binh của Quân đội nhà Nguyễn thời kỳ đầu có quân số khoảng 150 nghìn người, đến cuối thời kỳ này [1880] quân số này giảm đi đáng kể, ở miền Bắc còn khoảng 60 nghìn người.

Ngoài hai lực lượng chính là Vệ binh và Cơ binh, quân đội Nguyễn còn có lính trạm và lính lệ. Trong giai đoạn này, các lực lượng như thủy binh, tượng binh, pháo thủ binh được xây dựng như nước binh chủng chiến đấu.

Thủy binh được chú trọng phát triển với trên 200 nghìn người và một đội thuyền binh lên tới khoảng 800 chiếc không kể các thuyền làm nhiệm vụ vận tải. Trong lực lượng thuyer binh Nguyễn thời kỳ này đã có những chiếc thuyền được thiết kế theo kiểu chiến thuyền của châu Âu, trang bị mỗi thuyền 36 pháo. Có 200 pháo thuyền trang bị từ 16 - 22 pháo. 100 đại chiến thuyền với 50 - 70 mái chèo được trang bị pháo và cự thách pháo. Còn lại khoảng 500 chiến thuyền có khoảng 40 mái chèo và trang bị một pháo loại súng thần công.

Thủy quân cũng được tổ chức thành các đơn vị gọi là doanh như bộ binh. Mỗi doanh được biên chế gồm một số vệ [cơ], dưới cơ là các đội thuyền. Thuyền là đơn vị chiến đấu cơ sở. Tùy theo từng loại thuyền mà có số lượng quân khác nhau, trung bình mỗi thuyền chiến đấu có 50 - 60 người, Đứng đầu là lực lượng thủy binh quân đội Nguyễn thường là Thủy sư đô đốc.

Lực lượng tượng binh ban đầu tổ chức thành 1 doanh gồm có 5 vệ với 50 thớt voi ở kinh đô và 7 cơ ở những tỉnh mà triều Nguyễn xét thấy quan trọng. Sau đó số lượng co hẹp lại chỉ còn 2 vệ ở kinh đô và một vài cơ ở một số tỉnh.

Lực lượng pháo thủ binh cũng được tổ chức thành các doanh, dưới doanh, dưới doanh là vệ [cơ], mỗi vệ gồm một số đội. Biên chế mỗi vệ pháo thủ binh gồm 500 quân và trang bị 10 súng thần công, 200 súng điều sang; với các đơn vị đội biên chế 50 quân và 1 súng thần công. Đối với các đội, cơ pháo thủ binh thuộc lực lượng cơ binh của các tỉnh trực tiếp quản lý lệ thuộc doanh Thần cơ của triều đình về các mặt huấn luyện, trang bị vũ khí.

Về trang bị, quân đội Nguyễn khá phát triển. Nhiều đơn vị được trang bị hỏa khí như ống phun lửa, quả nổ, súng điều sang [gồm thạch cơ điều sang, thần cơ điều sang, bắc cơ điều sang], pháo [súng thần cơ, thần công thiết bác].

Chế độ tuyển binh được thực hiện bằng cách gọi đinh tráng. Thời hạn tại ngũ được xác định tùy theo sắc lính và địa phương tuyển quân. Thời hạn phục vụ trong quân ngũ là 10 năm đối với đối với binh lính được tuyển từ các tỉnh thuộc Nam Kỳ và từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, 15 năm ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa. Tuổi tối đa phục vụ trong quân đội thường trực là 50 [quy định này có từ năm 1868]. Quan võ được tuyển chọn từ các kỳ thi võ.

Binh lính được cấp ruộng ở quê và hưởng lương ăn và một ít tiền.

Dưới thời Minh Mạng đến Tự Đức, Quân đội nhà Nguyễn có khoảng 120 nghìn người. Tuy nhiên sức chiến đấu của Quân đội nhà Nguyễn yếu kém do trang bị lạc hậu so với quân đội các nước đương thời, huấn luyện kém và triều đình ít quan tâm. Quân đội Nguyễn trong giai đoạn này đã bị quân xâm lược Pháp đánh bại và để đất nước rơi vào sự đô hộ của thực dân Pháp

Giai đoạn 2 [1884 - 1945], Việt Nam đã bị Pháp xâm lược hoàn toàn và chia ra làm ba xứ để cai trị với ba chế độ khác nhau. Triều đình Nguyễn trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Quân đội nhà Nguyễn lúc này vẫn tồn tại hai thành phần là Vệ binh và Cơ binh. Trong lực lượng Vệ binh chỉ còn có Thân binh với biên chế khoảng 2 nghìn quân trong 4 vệ và 1 đội quân nhạc phục vụ các nghi lễ của triều đình Nguyễn [khoảng 50 nhạc công]. Lực lượng cơ binh chủ yếu là bộ binh chỉ còn lại ở các tỉnh Bắc Kỳ do quan đầu tỉnh của triều đình Huế trực tiếp nắm nhưng dưới sự giám sát của viên công sứ Pháp. Lực lượng Cơ binh có khoảng 27 nghìn quân được chia thành 4 đạo đóng trên địa bàn các tỉnh xung quanh Hà Nội và châu thổ sông Hồng.

Năm 1891, Toàn quyền Đông Dương của Pháp ra nghị định thành lập lực lượng Cơ binh do Pháp trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy, lực lượng này ban đầu có khoảng 4 nghìn quân, làm nhiệm vụ phục vụ quan lại người Việt Nam ở các tỉnh, huyện và canh gác công sở ở địa phương. Và với nghị định này của Toàn quyền Đông Dương đã đặt dấu chấm hết cho Quân đội nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến độc lập.

Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ nhà nước phong kiến cuối cùng ở Việt Nam cùng lực lượng vũ trang của chúng.

Bách khoa tri thức Quốc phòng toàn dân

QPTD -Thứ Tư, 25/07/2012, 14:58 [GMT+7]

Đấu tranh quốc phòng của các triều đại phong kiến Việt Nam

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức đấu tranh nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, giữ vững nền độc lập, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Trong các bài học đó, bài học “đấu tranh quốc phòng” vẫn còn nguyên giá trị đối với chúng ta ngày nay.


Nguyễn Trãi - người suốt đời phụng sự chân lý “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng về chính trị và quân sự ở khu vực Đông Nam Á, lại giàu tài nguyên khoáng sản. Do vậy, Việt Nam luôn là “tâm điểm” thu hút sự quan tâm của nhiều nước, nhất là các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Trong lịch sử cổ, trung đại, các thế lực phong kiến phương Bắc luôn rắp tâm đánh chiếm, thôn tính nước ta. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn nham hiểm để do thám, dụ dỗ, lôi kéo, thậm chí răn đe, buộc ta phải chấp nhận những yêu sách ngang ngược. Không thoả mãn yêu cầu, chúng phát động chiến tranh xâm lược. Trước hiểm họa ngoại xâm, ngay từ ngày đầu dựng nước, các triều đại phong kiến Việt Nam [PKVN] đã sớm hình thành tư tưởng “dựng nước đi đôi với giữ nước”, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”; kết hợp các biện pháp, nhất là các hoạt động đối ngoại sắc sảo, linh hoạt, không chấp nhận những điều kiện bất lợi do ngoại bang áp đặt; đồng thời, ban hành nhiều chính sách hợp lòng dân để cố kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam nhằm phòng, chống, khắc phục thiên tai, khai hoang, phục hoá, đẩy mạnh sản xuất phát triển đất nước. Bên cạnh đó, nhà nước PKVN cũng kiên quyết trấn áp các bè đảng, nhất là những phần tử cấu kết với các thế lực bên ngoài hòng gây rối, bạo loạn để giữ vững hòa bình, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia… Những hoạt động “đấu tranh quốc phòng” trên của các triều đại PKVN rất đa dạng, phong phú; tựu trung, được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, giữ vững quan điểm độc lập tự chủ, lánh xa cuộc chiến “tranh bá đồ vương” của ngoại bang. Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu chuộng hoà bình, muốn làm bạn với tất cả các nước, nhất là với các nước láng giềng. Bởi vậy, các triều đại PKVN luôn nhất quán tư tưởng chỉ đạo là ưu tiên tạo dựng và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định đất nước, nhất là ở khu vực biên giới, để nhân dân có điều kiện tập trung mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, coi đây là kế sách để xây dựng đất nước. Khi đất nước còn ở thuở sơ khai, thế nước còn yếu, nhưng với tinh thần độc lập tự chủ cao, Vua Hùng đã khéo léo khước từ trước những lời lẽ dụ dỗ hết sức thâm độc của kẻ thù1, tránh được một cuộc “tranh bá đồ vương” thời Xuân Thu [năm 722 - 479 TCN]2. Sau này, đế quốc Nguyên Mông tuy là đội quân rất mạnh [đã chiếm một nửa châu Âu và phần lớn Trung Quốc], nhưng để tranh ngôi Đại Hán, một mặt chúng thực hiện kế sách hoà hoãn tạm thời bang giao, lôi kéo Đại Việt tham gia vào cuộc chiến nhằm tập trung lực lượng đánh chiếm Nam Tống; mặt khác, chúng vẫn do thám tình hình, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta khi có thời cơ. Nắm được ý đồ của địch, Triều đình nhà Trần đã kiên quyết, khôn khéo khước từ những yêu sách vô lý và láo xược của chúng. Cùng với đó, vua tôi nhà Trần còn bí mật động viên toàn dân chuẩn bị tiềm lực quốc phòng sẵn sàng chống quân xâm lược. Vì thế, các triều đại PKVN không những đã giữ vững độc lập, tự chủ, không bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh do chúng phát động, mà còn nêu cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhân dân các nước láng giềng chống kẻ thù chung. Đó là những hoạt động quan trọng, xuyên suốt trong tư tưởng đấu tranh quốc phòng của các triều đại PKVN.

Hai là, đấu tranh loại trừ hoạt động quấy nhiễu nơi biên ải, ngăn chặn do thám quân sự; phô trương sức mạnh phòng bị. Ngoài nhiệm vụ canh phòng ở khu vực biên giới, các triều đại PKVN còn trực tiếp chỉ đạo các tù trưởng, tộc trưởng, nhất là nhân dân vùng biên chủ động nắm tình hình, tích cực giao lưu với nhân dân nước láng giềng, tạo mối quan hệ thân thiết. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với ngoại bang triệt phá các băng đảng, tổ chức phản loạn, chống lại triều đình, phá hoại cuộc sống yên bình nơi biên giới. Bằng sự kiên trì và thái độ kiên quyết đấu tranh, Lê Hoàn đã đập tan mưu đồ sử dụng bè đảng Văn Dũng, tụ tập, cướp phá, quấy rối ở vùng biên của nhà Tống, buộc nhà Tống phải nhượng bộ; không dám dung túng bọn đào vong Hoàng - Khánh - Tập khi chúng bỏ chốn sang Hoan Châu [năm 1003]… Nhà nước PKVN còn ban hành nhiều quy định buộc người nước ngoài khi vào Đại Việt phải tuân theo, làm cơ sở để đấu tranh ngăn chặn các hoạt động tình báo, gián điệp, bảo trợ cho các phần tử xấu chống phá; chủ động tuyển binh, luyện binh, duyệt binh, hành binh, phô diễn chiến cụ, phô trương sức mạnh phòng bị của đất nước trước sứ thần nước ngoài, đồng thời răn dạy bề tôi, quân, dân không gây hiềm khích, mắc mưu gây chiến của địch, giữ vững hòa bình. Có thể nói, đây là nội dung, tư tưởng và những hành động đấu tranh quốc phòng nổi bật ở thời tiền Lê, góp phần ngăn đe và triệt tiêu ý đồ xâm lược của ngoại bang.

Ba là, chủ động đấu tranh với kẻ thù bằng hai hình thức: gián tiếp và trực tiếp để bảo vệ giang sơn xã tắc. Việt Nam là một nước nhỏ, dân số ít, luôn bị phong kiến phương Bắc đè nén, xâm lấn và bắt cống nạp như một nước “chư hầu”. Để bảo vệ đất nước trong bối cảnh đó, nhà nước PKVN rất coi trọng giáo dục lịch sử truyền thống, lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc cho dân chúng; bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hoá, địa lý, quân sự, quốc phòng, ngoại giao… cho quan chức triều đình, giúp họ có đủ khả năng để đấu tranh với địch trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời, vừa giữ vững nguyên tắc đấu tranh kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, vừa linh hoạt, uyển chuyển giải quyết dứt điểm từng vấn đề, không để phát sinh, phức tạp thêm tình hình mà vẫn giữ vững nguyên tắc, thánh chỉ của triều đình: “Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vứt bỏ, ngươi kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian”3… Bởi vậy, mỗi khi phong kiến phương Bắc lấn chiếm, cướp bóc hay chuẩn bị chiến tranh xâm lược, nhân dân ta ở các khu vực biên giới đã khôn khéo cất giấu tài sản, lương thực, phòng giữ, không gây chiến mắc mưu địch, còn triều đình thì gửi thư hỏi rõ nguyên do sự việc. Khi nguy cơ cuộc chiến đến gần, triều đình lại cử các cận thần tài giỏi đến trước “quân doanh”, thậm chí sang hẳn nước địch để trực tiếp đấu lý, tranh biện với chúng. Bằng những lời lẽ đối đáp cứng rắn, sắc sảo, Trần Khắc Trung4 đã làm giảm ý chí và tinh thần chiến đấu của quân xâm lược.

Bốn là, thi hành chính sách “nội đế ngoại vương”, “bang giao trên thế mạnh”, “bang giao phòng ngừa”. Mặc dù phải chấp nhận sắc phong là vương nước Nam từ thời An Dương Vương, nhưng kể từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn, các hoàng đế nước ta đều nhất quán, kiên trì thực hiện chính sách “nội đế ngoại vương” để giữ “trong ấm ngoài êm”; đồng thời, vận dụng linh hoạt, sáng tạo hai phương sách “bang giao trên thế mạnh”, “bang giao phòng ngừa”, tạo điều kiện thuận lợi xây dựng tiềm lực quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trong quan hệ bang giao với nước ngoài, các triều đại PKVN đã khéo léo dựa vào vận thế đất nước để có đối sách phù hợp. Khi thế nước đang lên, quốc phòng đang mạnh, lòng dân đang thuận, thì đấu tranh tỏ rõ khí phách5 “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Khi đất nước đang trong thế yếu, thì các triều đại PKVN lại khai thác thế mạnh của mình, đánh vào chỗ yếu - lòng tham của quan quân, vua chúa nước ngoài: trao trả dân tình xâm nhập qua biên giới, tù binh, chiến cụ bắt được sau các cuộc chiến, thậm chí còn dâng tặng báu vật6… đòi lại đất đai, cương vực của Tổ tiên7, góp phần giữ nguyên bờ cõi, xây dựng nền thái bình. Có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta, bằng các chính sách phù hợp, các triều đại PKVN đã vừa chủ động phòng ngừa, tiêu diệt được thù trong, vừa sẵn sàng đánh bại giặc ngoài, ngăn chặn các ý đồ xâm lược, buộc đối phương phải điều chỉnh đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng phù hợp, tôn trọng, hợp tác với ta. Qua đó, chúng ta kịp thời ngăn chặn những hành động phá hoại, giữ yên bờ cõi, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hoạt động đấu tranh quốc phòng của nhà nước PKVN đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử dân tộc, được tiến hành bằng nhiều biện pháp, hình thức phong phú, linh hoạt, khéo léo, đạt hiệu quả cao.

Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế, khu vực, nhất là Biển Đông đang có nhiều diễn biến phức tạp, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng nặng nề hơn, đòi hỏi chúng ta phải tập trung mọi nguồn lực phát triển tiềm lực quốc phòng, đồng thời nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp những bài học của năm xưa.

Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN QUANG

và Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN DŨNG

1 - Năm 505 - 465 TCN, sau khi chiếm được nước Ngô, Việt Vương Câu Tiễn đã sai sứ xuống dụ Vua Hùng thuần phục nhưng bị Vua Hùng cự tuyệt.

2 - Bách khoa tri thức quốc phòng toàn dân, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 500.

3 - Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb Văn hóa - Thông tin, H. 2006, tr. 317.

4 - Năm 1285, tại quân doanh của Ô Mã Nhi, Trần Khắc Trung đã nói: “Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiểu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người”.

5 - Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng: Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói “Chó nhà cắn người”; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được.

6 - Năm 1078, vua Lý Nhân Tông sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, để đổi lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt đi.

7 - Năm 1079 Nhà Tống đem Thuận Châu trả cho ta [tức là châu Quảng Nguyên], Năm 1084, Vua ta “sai lang bộ binh Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng người Tống bàn việc cương giới. Định biên giới, nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện, 3 động.

Video liên quan

Chủ Đề