Trách nhiệm của nhà Nguyễn khi kí các hiệp ước
Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí kết các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp như thế nào”và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Lịch sử 8. Show
Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp như thế nào?Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp: -Nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh chống Pháp và chống triều đình.Phong trào kháng chiến chống Pháp trong nhân dân được đẩy mạnh hơn, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. - Quan lại triều đình ờ các địa phương đã phản đối lệnh bãi binh => Là cơ sở để phái chủ chiến trong triều đình đẩy mạnh hoạt động. Hãy để Top lời giải giúp bạn bổ sung kiến thức thông qua bài tìm hiểu về Hiệp ước 1883 và Hiệp ước 1884 dưới đây nhé ! Kiến thức tham khảo về Hiệp ước 1883 và Hiệp ước 18841. Hiệp ước 1883 (Hiệp ước Hác Măng)a.Bối cảnh ra đời của hiệp ước 1883 Đầu thập niên 1880, quân Pháp chủ trương xâm lăng và tìm cách gây hấn tại Bắc Kỳ. Năm 1882, thủ phủ Hà Nội thất thủ, Pháp chiếm được toàn bộ miền trung châu Bắc Kỳ. Trong khi đó, sau khi triều đình Huế gửi cầu viện, dưới danh nghĩa giúp nhà Nguyễn, quân Thanh đã vượt biên giới vào Bắc Kỳ mở đầu cuộc chiến Pháp- Thanh. b. Nội dung hiệp ước Hác Măng (1883) Một nội dung chủ yếu của Hiệp ước là chia Việt Nam làm ba kì (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Từ phía bắc tỉnh Bình Thuận trở vào nam gọi là Côsanhsin (Cochinchine), tức Nam Kỳ và được coi là thuộc địa của Pháp; từ địa giới phía bắc tỉnh Bình Thuận trở ra tới Đèo Ngang gọi là An Nam, tức Trung Kỳ; từ Đèo Ngang trở ra gọi là Tông canh (Tonkin), tức Bắc Kỳ. An Nam và Tonkin hợp lại gọi là Vương quốc An Nam (Empira dAnnam) do Hoàng đế An Nam trị vì, nhưng phải đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, ai muốn đi vào đất Trung Kỳ đều phải có giấy nhập cảnh do những viên chức cao cấp nhất của giới cầm quyền Pháp cấp và phải được Nam triều chuẩn y. Thực dân Pháp bắt triểu đình Huế phải gọi toàn bộ số quân lính đã gửi ra chiến trường Bắc Kỳ trở về và đình ngay mọi hoạt động quân sự, phải ra lệnh cho các quan lại Bắc Kỳ trở lại làm việc như cũ, nơi nào khuyết phải bổ sung ngay và nhà cầm quyền Pháp đề cử ai thì triều đình phải làm mọi thủ tục để bổ dụng ngay (Điều 5). Thực dân Pháp bắt triểu đình Huế phải cho lưu hành khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ loại tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành. Như vậy, cùng một lúc tại Việt Nam tồn tại và lưu hành 3 đồng tiền: tiền Việt Nam (quan, tiền, tiền đồng,...); đồng bạc Mễ Tây Cơ, tức đồng bạc hoa xoè và đồng Đông Dương (Điều 27). Điều ước quốc tế đa phương được kí kết ngày 25.3.1957 tại Rôma (Italia), có hiệu lực từ 01.01.1958 giữa 6 quốc gia sáng lập viên của Cộng đồng kinh tế châu Âu (Bỉ, Pháp, Hà Lan, Luxembua, Cộng hoà Liên bang Đức và Italia) để hình thành các mục tiêu và nguyên tắc của Cộng đồng châu Âu. Hiệp ước này đặt nền móng cho quá trình tháo bỏ sự hạn chế thương mại giữa các quốc gia hội viên, ấn định việc tự do di chuyển nhân lực, tài sản, tư bản giữa các nước thành viên, điều hòa các chính sách thuế và trợ giúp các khu vực nghèo đói. 2. Hiệp ước 1884 (hiệp ước Patơ nốt)a. Nguyên nhân Pháp lại kí với triều đình Huế bản hiệp ước Patơ nốt (1884) vì: Sau hiệp ước 1883, nhân dân cả nước một mặt phẫn nộ trước thái độ đầu hàng của triều nguyễn, mặt khác càng căm thù quân xâm lược Pháp nên sôi nổi đứng lên kháng chiến. Trước hoàn cảnh đó, chính quyền thực dân Pháp chủ trương làm dịu bớt tình hình căng thẳng của nhân dân và tỏ ra rộng lượng với triều đình để lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn nên đã dẫn đến việc kí kết hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884 b. Nội dung hiệp ước Patơ nốt + Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì, nhập vào Nam Kì thuộc Pháp. + Ba tỉnh Thanh – Nghệ - Tĩnh sát nhập vào Bắc Kì. + Triều đình chỉ được cai quản Trung Kì nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở Huế. + Việc giao thiệp với nước ngoài đều do Pháp nắm. + Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc Kì về Trung Kì. => Với hiệp ước này, nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách một quốc gia độc lập đã hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, kéo dài đến Cách mạng thàng Tám năm 1945. 3. Thái độ của quan lại, nhân dân và trách nhiệm của nhà Nguyễn để mất nước ra sao?a. Thái độ của một bộ phận quan lại và nhân dân ta khi triều đình Huế kí các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp: + Quan lại: Một bộ phận sĩ phu, văn thân triều đình như Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện... phản đổi lệnh bãi binh, không đồng tình với quyết định của nhà vua. + Nhân dân:Vô cùng căm phẫn cả triều đình Huế lẫn bọn thực dân Pháp. Từ đó, khiến cho các phong trào kháng chiến chống Pháp được nổ ra liên tục và mạnh mẽ hơn. b. Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước:Có thể nói, từ khi thành lập, nhà Nguyễn cũng đã có những đóng góp trong việc xây dựng, mở mang bờ cõi nước ta... Tuy nhiên, đến giai đoạn khủng hoảng và suy thoái thì nhà Nguyễn không còn làm tốt trọng trách giữ gìn và bảo vệ đất nước. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã bỏ hết trách nhiệm của mình, thẳng tay dâng đất nước cho giặc, phó mặc số phận của đất nước, của nhân dân cho Pháp. Đó là điều nhân dân rất phẫn nộ.
Về khách quan, chúng ta cần phải đặt triều Nguyễn trong bối cảnh chung của lịch sử thế giới để thấy được nguyên nhân khách quan dẫn tới việc thực dân nổ súng phát động chiến tranh xâm lược vào năm 1858. Đó cũng là nguyên nhân khách quan áp đặt từ bên ngoài ngoài ý muốn chủ quan của chính quyền các nước (trong đó có Việt Nam). -Vào nửa đầu thế kỉ XIX, hầu hết các nước tư bản trên thế giới phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tìm kiếm thị trường đặc ra yêu cầu bức thiết, cuộc chạy đua ráo riết giữa các nước tư bản (trong đó có Pháp) săn tìm các thuộc địa diễn ra gây go và quyết liệt. Châu Á, trong đó có khu vực Đông Nam Á, Viêt Nam không thể không nằm trong quĩ đạo này đã trở thành đối tượng săn lùng, nhòm ngó, là cái bánh ngọt hấp dẫn cho bọn tư bản phương Tây. -Với những lí do cơ bản là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đất rộng người đông. Tư bản pháp từ sớm đã có nhiều hoạt động để giao lưu với Việt Nam mang tính liên tục và ngấm ngầm với một đội quân giáo sĩ, thương nhân gián điệp rình rập chờ cơ hội. Việt Nam đương nhiên phải đối đầu với nguy cơ xâm lược. Và cuối cùng không tránh khỏi sự tấn công của thực dân Pháp với những ưu thế tuyệt đối của nó. Trong bối cảnh này, hầu hết các nước trong khu vực đều bị tư bản phương Tây thôn tính (trừ Xiêm).*Về chủ quan, đối với Việt Nam, ngoài nguyên nhân khách quan trên, còn phải đề cập đến một nguyên nhân chủ quan trong bối cảnh chung của khu vực mà các nước khác không có.-Trước đó, do bị Tây Sơn đánh tả tơi, Nguyễn Ánh đã đi cầu viện nước Pháp. Ngày 28/11/1787, tại Paris, đại diện của Nguyễn Ánh và chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước 10 điểm, theo đó Pháp cam kết giúp binh thuyền, quân đội và chiến cụ theo yêu cầu của chúa Nguyễn. Còn Nguyễn Ánh cam kết sẽ nhường chủ quyền cửa Hàn (Đà Nẵng) và đảo Côn Lôn cho Pháp. Nước Pháp được lập xưởng trên đất liền để sửa chữa tàu thuyền… Mặc dù Hiệp ước không được thực hiện song chính là cái cớ để Pháp xâm lược nước ta vào giữa thế kỉ XIX, một nguyên nhân tuy chủ quan nhưng hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của Nguyễn Ánh khi tranh thủ sự trợ giúp quân sự của Pháp. |