Tổ chức bộ máy nhà nước của các triều đại phong kiến Trung Quốc là
Khi triều đại của Lê Hiến Tông (trị vì từ 1497 - 1504) kết thúc vào đầu thế kỷ 16 là lúc bắt đầu một thời kỳ đau lòng khi đế quốc phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy. Cuộc khủng hoảng này, xét cho cùng, là chuyện thường thấy trong lịch sử của một đất nước mà công cuộc xây dựng chính trị đặc biệt phức tạp và đầy biến động kể từ khi chính thức giành được độc lập vào năm 939 sau chiến thắng của Ngô Quyền ở Bạch Đằng. Những lục đục nội bộ này khiến tướng Mạc Đăng Dung lên nắm quyền và thành lập vương triều Mạc vào năm 1527. Tuy nhiên, triều đình nhà Lê có thể trông cậy vào sự ủng hộ của Nguyễn Kim, một quan lại trung thành với hoàng tộc. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của tướng Trịnh Kiểm, công cuộc tái thống nhất đất nước chấm dứt năm 1592. Dù vậy, sự thống nhất của một Đại Việt không chính thống dưới danh nghĩa nhà Lê chỉ còn là vẻ bề ngoài. Thực trạng quyền lực là sự tranh chấp giữa hai dòng họ Trịnh và Nguyễn, mỗi dòng họ đều cai trị dưới danh xưng của nhà Lê, dòng họ đầu là chúa phương Bắc (Đàng Ngoài, Bắc Hà hay Bắc kỳ theo các nguồn), dòng họ thứ hai là chúa miền Nam (Đàng Trong, Nam Hà hay Nam Kỳ). Sự cân bằng bấp bênh này đã bị phá vỡ từ năm 1771 khi đối mặt với cuộc nổi dậy của anh em nhà Tây Sơn, những người đã giành chính quyền vào năm 1786. Nhưng vào năm 1792, sau cái chết không có người thừa kế của Nguyễn Huệ - người trị vì dưới tên Quang Trung, Nguyễn Ánh, người cuối cùng sống sót của gia đình chúa Nguyễn, sang tị nạn ở Xiêm La từ năm 1785, đã hưởng lợi từ những cuộc đấu đá nội bộ trong gia đình của cố hoàng đế. Được sự giúp đỡ của Pháp thông qua hành động của Giám mục Pigneau de Béhaine, ông vào Thăng Long năm 1802, lấy quốc hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô và với sự cho phép của Trung Quốc, ông đặt tên cho vương quốc là Việt Nam vào năm 1804. Show
Tuy trị vì một lãnh thổ đã được thống nhất lại dưới một chính quyền duy nhất, vương quyền nhà Nguyễn vẫn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị từ nửa sau thế kỷ 19. Song song đó, sự thèm muốn của chủ nghĩa đế quốc Pháp, được thúc đẩy đồng thời bởi các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị đã khuyến khích nước này mở rộng ảnh hưởng của mình đối với Đế chế Tự Đức. Là một phần của động lực mở rộng lãnh thổ kéo dài từ năm 1858 đến năm 1884, Pháp cuối cùng đã áp đặt chính quyền của mình lên Việt Nam bất chấp sự phản kháng quyết liệt, thể hiện qua phong trào Cần Vương, kéo dài gần ba mươi năm và chưa từng đạt được thành quả. Các hiệp ước Harmand và Patenôtre năm 1883 à 1884 đã hoàn tất việc tước đoạt chủ quyền của Việt Nam. Đất nước được chia thành ba thực thể riêng biệt về mặt pháp lý, vùng thuộc địa Nam Kỳ, các vùng bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ, được hợp nhất từ năm 1887 thành một kiến trúc duy nhất, Liên bang Đông Dương, bao gồm cả Lào và Campuchia. Bấy giờ dưới sự kiểm soát của nhà nước thuộc địa, nhà Nguyễn chỉ thực hiện quyền lực tượng trưng đối với các xứ bảo hộ An Nam và Bắc Kỳ, Nam Kỳ do chính quyền Pháp trực tiếp quản lý. Khuynh hướng độc lập của một số hoàng đế như Thành Thái (trị vì từ 1889 - 1907) hay Duy Tân (trị vì từ 1907 - 1916) đã bị đàn áp bằng việc lưu đày. Việc Bảo Đại thoái vị vào tháng 9 năm 1945 đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Nguyễn trên một đất nước bị chia cắt mãi đến năm 1945. Bất chấp những thăng trầm này được đánh dấu bằng nhiều đổ vỡ trong đời sống chính trị Việt Nam, tính lâu dài vẫn được duy trì trong suốt nhiều thế kỷ. Điều đầu tiên trong số này là sự tồn tại của một bộ máy quan lại (xem lại tiêu đề phụ "chế độ quân chủ") với các quy tắc được hệ thống hóa vào thế kỷ 15: tuyển dụng bằng thi tuyển, thực tập, phân công theo nguyên tắc bổ nhiệm ngoài nguyên quán - tức là cấm một học giả-công chức làm quan tại nguyên quán xuất xứ của mình -, đánh giá định kỳ. Mặc dù không phải lúc nào nó cũng phù hợp với lý tưởng dân chủ, nhưng hệ thống này cũng không phải là một nhất thể bị phá hoại bởi chế độ chuyên quyền và tham nhũng. Ngược lại, đó là một cấu trúc năng động phản ánh sự phức tạp của xã hội Việt Nam, nơi lý tưởng của nhà nước bị tranh chấp bởi lực lượng dòng họ và mạng lưới người ủng hộ chính trị. Nó cũng nhắc lại những điểm mạnh và điểm yếu của quyền lực trung tâm nơi mà đôi khi một cuộc đối thoại phức tạp có thể tồn tại. Do đó, triều đại của Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15 đã khởi đầu cho mong muốn hợp lý hóa hệ thống quan lại để làm cho nó hiệu quả hơn và dễ kiểm soát hơn, trong khi đó của Minh Mạng ở thế kỷ 19 được đặc trưng bởi sự tập trung quan liêu ngày càng tăng. Đối với thời kỳ thuộc địa, mặc dù là một bước phát triển lớn về tổ chức nhà nước, nhưng nó không nhất thiết đồng nghĩa với một tấm bảng trắng. Hệ thống quan lại thích nghi với chính tình hình chính trị mới đang cố gắng chống lại nó. Vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm cả tình trạng thiếu hiệu quả kinh niên của mình, và để phù hợp với kinh lược cũng như Hoàng đế, nhà nước thuộc địa (tiêu đề phụ là “chính quyền thuộc địa”) ở Bắc Kỳ và An Nam cần phải dựa vào “kiến thức phục vụ” này để quản lý lãnh thổ mới bị xâm chiếm, ít nhất là cho đến năm 1918. Tổ chức lịch sử này của Nhà nước trên thực tế là nạn nhân của chính sách đồng hóa được tiến hành chủ yếu dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut, người đã biến nó thành phụ trợ cho nhà nước thuộc địa. Nhưng xa hơn việc trở thành những người hầu cận đặc quyền đơn thuần của một thế lực ngoại bang, một phần trong số các học giả mới này đã thúc đẩy sự phản kháng đối với sự hiện diện của Pháp. Đặc điểm chính thứ hai trong các chính sách của chính phủ là sự phức tạp trong quan hệ với các lãnh thổ không phải của người Kinh được tích hợp vào Đế quốc, đặc biệt là trong cuộc Nam tiến giữa thế kỷ 11 và 18. Tại các khu vực ngoại vi này, quyền lực trung tâm đóng vai trò phân vùng có nhịp điệu thay đổi tùy theo cán cân quyền lực: đồng hóa, đặc biệt là thông qua chính sách hôn nhân; hội nhập vào kiến trúc thiết chế với hình ảnh các dòng họ lớn của phương Bắc, những người đảm nhiệm chức năng chính thức canh giữ các biên giới và hưởng lợi từ các nhiệm vụ hành chính có thể chuyển giao cho con cháu, trừ thời vua Minh Mạng. Theo nghĩa này, chính sách thuộc địa có chút khác biệt so với thực tiễn của đế quốc Việt Nam với mối quan tâm tổng thể là hòa nhập những lãnh thổ này vào kiến trúc quốc gia với những đặc điểm đã được khẳng định, ngay cả khi chúng có thể được hồi sinh, đặc biệt là vào thời kỳ đầu thành lập nhà nước thuộc địa. Cuối cùng, quan hệ với Trung Quốc, cả về chính trị, kinh tế và văn hóa, cũng là một bất biến trong thực tiễn chính trị Việt Nam. Khác xa với quan hệ đối đầu, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam ban đầu là hữu cơ và đã sinh ra tinh hoa Trung-Việt. Sự độc lập chính thức đối với triều đình Bắc Kinh không đồng nghĩa với việc cắt đứt phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc khi mà việc triều cống được nộp theo thể thức và thời kỳ có thể thay đổi. Không phải một hành động trung thành như nhiều nhà quan sát phương Tây giải thích, việc cống nạp này trái lại thể hiện dấu hiệu chủ quyền của Việt Nam đối với Trung Quốc, nhằm tìm kiếm sự công nhận của nước này, để thiết lập tính hợp pháp cũng như có thể chống lại, nếu cần, các khuynh hướng can thiệp của Bắc Kinh trên lãnh thổ Việt Nam. Giống như thần Janus, chế độ quân chủ Việt Nam sử dụng thuật ngữ kép. Tự xưng đơn giản là vua với Triều đình Bắc Kinh, nhà cai trị lại xưng là hoàng đế đối với thần dân và các lãnh thổ mà ông muốn mở rộng ảnh hưởng của mình. Đổi lại, kế hoạch này đã được áp dụng một cách tương tự trong các mối quan hệ được duy trì bởi nhà nước quân chủ Việt Nam với chính quyền địa phương của các vùng ngoại vi trong lãnh thổ của mình. Sự tan rã của Đế chế Trung Quốc và sự thành lập của nhà nước thuộc địa là một thay đổi chính trị lớn. Mặt khác, về kinh tế và văn hóa, quan hệ giữa hai nước vẫn rất bền chặt. Nhiều lĩnh vực hoạt động vẫn nằm trong tay các cộng đồng người Hoa mà chính quyền thuộc địa, do được nuôi dưỡng bởi thành kiến thù ghét người Hoa, đã tìm cách kiểm soát, đặc biệt là tổ chức kiểm soát nhập cư rất mạnh mẽ. Lịch sử Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Pháp (tiêu đề phụ "ngoại giao") đã được ghi lại bằng vô số tác phẩm và đã làm nảy sinh nhiều nghiên cứu khác nhau, được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, được lưu giữ ngày nay trong bộ sưu tập của Thư viện Quốc gia Pháp cũng như tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Sự trùng lặp của hai câu chuyện, người Việt Nam và người Pháp, mời chúng ta khám phá dấu vết của họ thông qua các nguồn tài liệu kỹ thuật số được cung cấp trong tiêu đề hiện tại “Chính phủ và các triều đại” này. Đăng tải tháng 2 năm 2021 Triều đại trong lịch sử Trung Quốc, hay triều đại Trung Quốc, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể từ khi triều đại đầu tiên được Hạ Vũ thành lập vào khoảng năm 2070 TCN cho đến khi Phổ Nghi thoái vị vào ngày 12 tháng 2 năm 1912, sau cuộc Cách mạng Tân Hợi, Trung Quốc đã được cai trị bởi một loạt triều đại kế tục nhau.[a][b] Triều đại Trung Quốc không chỉ bao gồm những triều đại được thành lập bởi người Hán – dân tộc có dân số áp đảo tại Trung Quốc – hay tiền thân của người Hán, tức liên minh bộ lạc Hoa Hạ, mà còn có cả các triều đại do các dân tộc phi Hán thành lập.[6] Chia lịch sử Trung Quốc thành nhiều thời kỳ do từng triều đại cai trị là một phương pháp phân tích thời kỳ phổ biến được các học giả áp dụng.[7] Theo đó, một triều đại được dùng để phân định thời kỳ cai trị của một gia tộc, và cũng có thể được dùng để mô tả các sự kiện, xu hướng, tính cách, các sáng tác nghệ thuật, và đồ tạo tác của thời kỳ đó.[8] Ví dụ, đồ sứ được làm vào thời Minh thì gọi là "đồ sứ triều Minh".[9] Triều đại chính thống cai trị Trung Quốc trong khoảng thời gian lâu dài nhất là triều Chu, với tổng cộng 789 năm. Trên thực tế, triều Chu bị phân làm hai giai đoạn – Tây Chu và Đông Chu – với quyền lực suy giảm nghiêm trọng trong giai đoạn Đông Chu.[10] Triều đại chính thống cai trị Trung Quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất là triều Nguyên hoặc triều Thanh, tùy theo nguồn tư liệu lịch sử.[11][12][13][14][15][c] Các triều đại Trung Quốc thường tự coi mình là "Thiên triều" (天朝).[19][20] Nhiều quốc gia triều cống cho Trung Quốc đã gọi các triều đại Trung Quốc là "Thiên triều Thượng quốc" (天朝上國) hay "Thiên triều Đại quốc" (天朝大國), như một hình thức thể hiện sự tôn trọng và phục tùng.[21] Mục lục
Thuật ngữSửa đổiTrong tiếng Trung Quốc, từ "triều" (朝) nghĩa gốc là "sáng sớm" hoặc "ngày hôm nay". Theo nghĩa chính trị, từ này được dùng để chỉ chế độ của nhà cai trị đương nhiệm. Sau đây là vài thuật ngữ liên quan đến khái niệm triều đại trong lịch sử Trung Quốc:
Lịch sửSửa đổiSự khởi đầu của chế độ triều đại cai trịSửa đổiBức vẽ Hạ Vũ, người mở đường chế độ triều đại cai trị Trung Quốc, của họa sĩ Mã Lân thời Nam Tống. Với vai trò là nhà sáng lập triều đại Trung Quốc chính thống đầu tiên – triều Hạ – Hạ Vũ thường được coi là người mở đường cho các triều đại cai trị ở Trung Quốc.[23][a] Trong chế độ triều đại cai trị ở Trung Quốc, nhà cai trị tối cao trên lý thuyết nắm trong tay quyền lực tuyệt đối và quyền chiếm hữu tư nhân đối với lãnh địa, mặc dù trên thực tế, thực quyền của họ phụ thuộc vào nhiều yếu tố.[24][d] Theo truyền thống, ngai vàng Trung Quốc được thừa kế độc quyền bởi các thành viên nam giới trong gia tộc cai trị, mặc dù không thiếu trường hợp ngoại thích lên nắm thực quyền thay cho quân chủ.[28][e] Quan niệm kế vị trên được gọi là Gia thiên hạ (家天下), trái với quan niệm Công thiên hạ (公天下) của thời tiền Hạ, mà trong đó, sự kế vị không mang tính thế tập.[24][30] Quá trình chuyển giao triều đạiSửa đổiTranh minh họa Trận Sơn Hải quan, một trận chiến quyết định trong thời kỳ chuyển giao Minh–Thanh. Triều Thanh giành chiến thắng và mở rộng quyền cai trị của mình ở Trung Quốc bản thổ ngay sau đó. Hiện tượng thịnh suy của các triều đại là một đặc điểm nổi bật trong lịch sử Trung Quốc. Một số học giả cố gắng giải thích hiện tượng này bằng cách cho rằng sự thành công hay thất bại của một triều đại phụ thuộc vào đạo đức của những nhà cai trị, trong khi những người khác lại tập Trung Quốc|chế độ quân chủ]] – một phương pháp giải thích được gọi là vòng tuần hoàn triều đại.[31][31][32][33] Quá trình chuyển giao triều đại trong lịch sử Trung Quốc diễn ra chủ yếu thông qua hai con đường: chinh phục quân sự và soán ngôi.[34] Triều Kim thay thế triều Liêu và triều Nguyên thống nhất Trung Quốc đều thông qua một loạt chiến dịch quân sự thành công. Mặt khác, Tào Ngụy thay thế Đông Hán và triều Lương thay thế Nam Tề là hai trường hợp soán ngôi. Thông thường, kẻ soán ngôi sẽ tìm cách khắc họa động thái sẵn sàng rời bỏ ngai vàng của nhà cai trị triều đại tiềm nhiệm trong một tiến trình gọi là thiện nhượng (禪讓), như một phương tiện hợp pháp hóa quyền cai trị.[35] Khi xem qua các mốc thời gian lịch sử, người ta dễ ngộ nhận rằng quá trình chuyển giao triều đại xảy ra đột ngột và dữ dội. Đúng hơn, các triều đại mới thường được thành lập từ trước khi lật đổ hoàn toàn một chế độ hiện có.[36] Ví dụ, năm 1644 thường được coi là năm mà triều Thanh kế tục triều Minh nắm giữ Thiên mệnh. Tuy nhiên, triều Thanh chính thức được tuyên bố thành lập vào năm 1636 bởi Thanh Thái Tông khi ông đổi quốc hiệu cũ Hậu Kim mà Thanh Thái Tổ đã đặt vào năm 1616. Trong khi đó, hoàng tộc triều Minh vẫn cai trị Nam Minh cho đến năm 1662.[37][38] Vương quốc Đông Ninh trung thành với triều Minh tại Đài Loan tiếp tục kháng chiến, chống lại triều Thanh cho đến tận năm 1683.[39] Ngoàira, trong giai đoạn chuyển giao Minh–Thanh, còn có nhiều phe phái khác tranh giành quyền kiểm soát Trung Quốc, đáng chú ý nhất là Đại Thuận và Đại Tây, lần lượt do Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung thành lập.[40][41][42] Thay đổi gia tộc cai trị là một việc rất phức tạp và tốn nhiều thời gian, triều Thanh đã mất tới gần hai thập kỷ để mở rộng quyền cai trị của họ trên toàn bộ Trung Quốc bản thổ. Tương tự, đầu giai đoạn chuyển giao Tùy–Đường, nhiều chế độ do các lực lượng nổi dậy thành lập, tranh giành quyền kiểm soát và tính chính thống khi quyền lực triều Tùy đang suy yếu. Các chế độ tự trị tồn tại trong giai đoạn đầy biến động này có thể kể đến Ngụy (của Lý Mật), Tần (của Tiết Cử), Tề (của Cao Đàm Thành), Hứa (của Vũ Văn Hóa Cập), Lương (của Thẩm Pháp Hưng), Lương (của Lương Sư Đô), Hạ (của Đậu Kiến Đức), Trịnh (của Vương Thế Sung), Sở (của Chu Xán), Sở (của Lâm Sĩ Hoằng), Yên (của Cao Khai Đạo) và Tống (của Phụ Công Thạch). Ngay cả khi đã thay thế triều Tùy, triều Đường vẫn phải tốn thêm hàng thập kỷ nữa mới thống nhất được Trung Quốc bản thổ.[43] Thông thường, tàn dư và con cháu hoàng tộc triều đại tiền nhiệm đều bị thanh trừng hoặc được phong cho các tước vị cao quý theo chế độ Nhị vương Tam khác (二王三恪) – điều sau này đã trở thành một phương tiện để triều đại cai trị đòi quyền kế tục hợp pháp từ triều đại tiềm nhiệm.[44] Ví dụ, Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế được lập làm "Trung Sơn vương" sau khi thoái vị và nhường ngôi cho Bắc Tề Văn Tuyên Đế.[45] Tương tự, Sài Vịnh, cháu trai của Hậu Chu Thế Tông, được Tống Nhân Tông phong làm "Sùng Nghĩa công" – một tước vị tiếp tục được các hậu duệ hoàng tộc Hậu Chu khác kế thừa.[46] Theo truyền thống ngành sử học Trung Quốc, mỗi triều đại mới sẽ biên soạn lịch sử triều đại tiền nhiệm, đỉnh cao là bộ Nhị thập tứ sử.[47] Truyền thống này vẫn được duy trì ngay cả khi cuộc Cách mạng Tân Hợi đã thay thế triều Thanh bằng nhà nước Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, nỗ lực soạn thảo một bộ lịch sử triều Thanh của những người Cộng hòa bị gián đoạn bởi Nội chiến Trung Quốc – cuộc nội chiến phân chia Trung Quốc thành hai chính thể: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở đại lục và Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan.[48] Sự kết thúc của chế độ triều đại cai trịSửa đổiMột bức ảnh Hoàng đế Phổ Nghi, được nhiều người coi là vị quân chủ hợp pháp cuối cùng ở Trung Quốc, được chụp vào năm 1922. Chế độ triều đại cai trị ở Trung Quốc chấm dứt vào năm 1912, khi nhà nước Trung Hoa Dân Quốc thay thế triều Thanh sau thành công của cuộc Cách mạng Tân Hợi.[49][50] Mặc dù đã có những nỗ lực khôi phục triều đại cai trị ở Trung Quốc sau cuộc Cách mạng Tân Hợi, nhưng chúng đều không thành công trong việc củng cố quyền cai trị và giành được tính chính thống. Trong cuộc Cách mạng Tân Hợi, cũng đã có nhiều đề xuất ủng hộ việc thay thế triều Thanh do người Mãn lãnh đạo bằng một triều đại mới của người Hán. Khổng Lệnh Di (孔令貽), hậu duệ đời thứ 76 của Khổng Tử và là người đang nắm giữ tước hiệu Diện Thánh công, được Lương Khải Siêu xác định là người kế thừa ngai vàng tiềm năng.[51] Trong khi đó, giới thân sĩ ở An Huy và Hà Bắc lại ủng hộ phục hưng triều Minh với hoàng đế là Chu Dục Huân (朱煜勳), một Diên Ân hầu.[52] Cả hai đề xuất trên rốt cuộc đều bị từ chối. Đế quốc Trung Hoa (1915–1916) do Viên Thế Khải thành lập sớm châm ngòi cho cuộc Chiến tranh hộ quốc và bị xóa sổ sau 101 ngày.[53] Đinh Tỵ phục tích (1917) là một nỗ lực phục hưng triều Thanh không thành công, khi chỉ kéo dài đúng 11 ngày.[54] Tương tự, Mãn Châu Quốc, một nhà nước bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản dựng lên trong Thế chiến thứ hai, với sự công nhận ngoại giao hạn chế, không được coi như một chế độ chính thống.[55] Các nhà sử học thường coi sự kiện Hoàng đế Phổ Nghi thoái vị vào ngày 12 tháng 2 năm 1912 là dấu chấm hết cho chế độ triều đại cai trị ở Trung Quốc sau gần bốn thiên niên kỷ tồn tại.[49] Tính chính thốngSửa đổiQuốc ấn cuả triều Thanh được khắc dòng chữ "Đại Thanh đế quốc chi tỷ" (大清帝國之璽). Nó là biểu tượng của quyền lực và tính chính thống. Suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc đã bị chia cắt chính trị trong nhiều giai đoạn, với các miền đất khác nhau được cai trị bởi các triều đại khác nhau. Mỗi triều đại hoạt động hiệu quả như một nhà nước riêng biệt với thể chế chính trị và triều đình riêng. Những giai đoạn chia cắt chính trị đáng chú ý nhất là Tam Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc, Nam–Bắc triều, và Ngũ đại Thập quốc. Mối quan hệ giữa các triều đại Trung Quốc trong những giai đoạn chia cắt, thường xoay quanh tính chính thống, vốn khởi nguồn từ học thuyết Thiên mệnh.[56] Triều đại do người Hán cai trị sẽ tuyên bố các triều đại đối địch do các dân tộc khác thành lập là phi chính thống theo khái niệm Hoa Di chi biện. Mặc khác, nhiều triều đại phi Hán đã tự nhận mình là triều đại chính thống, khắc họa bản thân trong vai trò là chính thể thực sự thừa kế tinh hoa văn hóa và lịch sử Trung Quốc. Theo truyền thống, chỉ những chế độ được coi là "chính thống" (正統) hoặc "chính danh" mới được gọi là "triều" (朝), còn những chế độ "phi chính thống" hoặc "không chính danh" được gọi là "quốc" (國), ngay cả khi chúng mang bản chất của một triều đại.[57] Với một số triều đại, tính chính thống vẫn còn đang là vấn đề gây tranh cãi trong giới học thuật hiện đại. Những tranh chấp về tính chính thống giữa các triều đại như trên đã tồn tại trong các giai đoạn sau:
Trong khi các giai đoạn chia cắt thường dẫn đến nhiều cuộc tranh luận sôi nổi giữa các quan chức và nhà sử học về việc những triều đại nào có thể và nên được coi là chính thống, chính khách Bắc Tống Âu Dương Tu lại cho rằng tính chính thống triều đại tồn tại ở một trạng thái lấp lửng trong các giai đoạn chia cắt, và chỉ được khôi phục sau khi có sự thống nhất chính trị.[80] Từ góc độ này, triều Tống sở hữu tính chính thống nhờ đặt dấu chấm hết cho giai đoạn Ngũ đại Thập quốc, mặc dù không được kế thừa tính chính thống từ Hậu Chu. Tương tự, Âu Dương Tu coi ý niệm về tính chính thống đã rơi vào quên lãng trong các giai đoạn Tam Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam–Bắc triều.[80] Vì hầu hết các nguồn sử liệu Trung Quốc đề cao ý tưởng về sự kế tục triều đại đơn tuyến, nên chỉ có duy nhất một triều đại được coi là chính thống tại một thời điểm bất kỳ.[66] Hầu hết nguồn hiện đại sắp xếp các triều đại chính thống kế tục nhau như sau:[66]
Những tranh chấp về tính chính thống kể trên tương tự như những tuyên bố ganh đua hiện đại về tính chính thống của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có thủ đô tại Bắc Kinh và Trung Hoa Dân Quốc có thủ đô tại Đài Bắc. Cả hai chế độ đều chính thức tuân thủ chính sách Một Trung Quốc và tự tuyên bố là đại diện chính thống duy nhất của toàn bộ Trung Quốc.[81] Dòng phụ hệSửa đổi
Có một vài triều đại được cai trị bởi các gia tộc có mối quan hệ phụ hệ, nhưng do nhiều lý do khác nhau, chúng được phân làm các triều đại riêng và được gán tên tiền tố khác biệt nhằm phục vụ mục đích lịch sử. Mặc cho các triều đại có chung nguồn gốc nhà cai trị thì những khác biệt về quốc hiệu và những thay đổi cơ bản trong hoạt động cai trị đã tạo ra yêu cầu cần phải phân biệt rõ tên triều đại. Ngoài ra, cũng có nhiều triều đại tự tuyên bố mình là hậu duệ của triều đại trước đó như một động thái chính trị có tính toán, nhằm đạt được hoặc nâng cao tính chính thống, ngay cả khi những tuyên bố đó là vô căn cứ. Mối quan hệ phụ hệ giữa nhà cai trị của các triều đại Trung Quốc sau đây thường được các nhà sử học ghi nhận:
Phân loạiSửa đổiMột tấm bản đồ Đế quốc Trung Quốc trong giai đoạn Khang Càn thịnh thế của Đức. Triều Thanh đồng thời được coi là "triều đại Trung Nguyên", "triều đại thống nhất", và "triều đại chinh phục". Triều đại Trung NguyênSửa đổiTrung Nguyên là một khu vựng rộng lớn ở hạ lưu sông Hoàng Hà, nơi hình thành nên cái nôi của nền văn minh Trung Quốc. "Triều đại Trung Nguyên" (中原王朝) đề cập tới các triều đại Trung Quốc có kinh đô nằm trong khu vực Trung Nguyên.[86] Thuật ngữ này đề cập tới cả các triều đại do dân tộc Hán lẫn các dân tộc phi Hán thành lập.[86] Triều đại thống nhấtSửa đổiTriều đại thống nhất đề cập tới các triều đại Trung Quốc, bất kể nguồn gốc gia tộc cai trị, đã thống nhất Trung Quốc bản thổ thành công. "Trung Quốc bản thổ" là một khu vực thường được coi như vùng đất trung tâm truyền thống của người Hán, không tương đương với khái niệm "Trung Quốc". Hoàng triều nào thống nhất thành công Trung Quốc bản thổ thì sẽ được công nhận là một "Đế quốc Trung Quốc" hoặc "Trung Hoa đế quốc" (中華帝國).[87][88] Khái niệm "đại nhất thống" (大一統) được nhắc đến lần đầu trong một văn bản Trung Quốc cổ có tên Công dương truyện, được cho là của học giả nước Tề Công Dương Cao.[89][90][91] Những nhân vật nổi tiếng khác như Khổng Tử và Mạnh Tử cũng từng đề cập đến khái niệm này trong các tác phẩm riêng của họ.[92][93] Các nhà sử học thường công nhận các triều đại sau đây đã thống nhất được Trung Quốc bản thổ: triều Tần, triều Tây Hán, triều Tân, triều Đông Hán, triều Tây Tấn, triều Tùy, triều Đường, triều Võ Chu, triều Bắc Tống, triều Nguyên, triều Minh, và triều Thanh.[94][95] Vị thế của Bắc Tống với tư cách một triều đại thống nhất vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi khi một phần Yên Vân thập lục châu nằm dưới sự quản lý của triều Liêu đương thời, trong khi Tây Hạ kiểm soát một phần Hà Sáo; theo phân tích trên, rõ ràng, Bắc Tống chưa thực sự là một triều đại thống nhất toàn bộ Trung Quốc bản thổ.[94][96] Triều đại chinh phụcSửa đổi"Triều đại chinh phục" (征服王朝) đề cập tới các triều đại Trung Quốc được thành lập bởi các gia tộc phi Hán cai trị một phần hoặc toàn bộ Trung Quốc bản thổ.[97] Thuật ngữ này do nhà sử học kiêm Hán học Karl Agust Wittfogel đặt ra, và vẫn là một nguồn gây tranh cãi giữa các học giả, khi có người cho rằng lịch sử Trung Quốc nên được phân tích và hiểu rõ theo quan điểm đa sắc tộc và đa văn hóa.[98] Bắc Ngụy và triều Thanh, lần lượt được thành lập bởi người Tiên Ti và người Mãn Châu, là hai triều đại chinh phục điển hình.[97] Quy ước tênSửa đổiTên chính thứcSửa đổiTheo thông lệ, khi mới thành lập triều đại, quân chủ Trung Quốc sẽ đặt cho đất nước của mình một cái tên chính thức, gọi là quốc hiệu (國號).[99][100] Suốt thời kỳ cai trị của một triều đại, quốc hiệu sẽ là tên gọi chính thức của đất nước, được dùng trong nội bộ và trong công việc ngoại giao. Quốc hiệu thường được chọn theo những cách sau:
Có những trường hợp mà quốc hiệu bị thay đổi giữa thời gian cai trị của một triều đại. Ví dụ, Nam Hán ban đầu có quốc hiệu là "Việt", về sau lại đổi thành "Hán".[107] Quốc hiệu của một vài triều đại còn có thêm chữ "đại" (大). Trong Dũng tràng tiểu phẩm của nhà sử học thời Minh Chu Quốc Trinh, người ta cho rằng triều đại đầu tiên đưa từ "đại" vào quốc hiệu là triều Nguyên.[108][109] Tuy nhiên, theo một số nguồn như Liêu sử hay Kim sử do nhà sử học thời Nguyên Thoát Thoát biên soạn, một vài triều đại trước đó – như triều Liêu và triều Kim – cũng đã sử dụng quốc hiệu có chữ "đại".[110][111] Kể cả khi quốc hiệu mà một triều đại Trung Quốc sử dụng không có chữ "đại", quan chức và thần dân ở những quốc gia triều cống vẫn gọi kèm thêm chữ "đại", như một cách để thể hiện sự tôn trọng.[109] Ví dụ, Nhật Bản thư kỷ (大唐) gọi Trung Quốc thời Đường là "Đại Đường", mặc dù quốc hiệu chính thức mà triều Đường sử dụng chỉ đơn giản là "Đường". Trong khi tất cả triều đại Trung Quốc đều tìm cách liên kết đất nước của họ với từ "Trung Quốc" (中國), không có bất cứ chế độ nào chính thức sử dụng từ này làm quốc hiệu.[112][113] Triều Thanh từng xác định rõ ràng tên đất nước mà họ đang cai trị là "Trung Quốc" trong nhiều hiệp ước quốc tể kể từ Điều ước Ni Bố Sở năm 1689, nhưng vẫn giữ quốc hiệu là "Đại Thanh".[114][115] Việc chọn quốc hiệu, cũng như tầm quan trọng của nó, được truyền bá rộng rãi khắp Vùng văn hóa Đông Á. Đáng chú ý, các nhà cai trị tại Việt Nam và Triều Tiên cũng xưng quốc hiệu riêng cho đất nước của họ. Tên tiền tốSửa đổiTrong ngành sử học Trung Quốc, các nhà sử học thường không gọi trực tiếp tên triều đại bằng quốc hiệu của chúng. Thay vào đó, tên triều đại mang tính lịch sử, thường có gốc gác từ quốc hiệu, mới được sử dụng thường xuyên. Ví dụ, triều Tùy có quốc hiệu là Tùy trong khi triều Kim có quốc hiệu là "Đại Kim". Khi có nhiều hơn một chế độ có cùng quốc hiệu, các nhà sử học sử dụng tên tiền tố để phân biệt.[7][36][116] Các loại tiền tố thường được sử dụng bao gồm:
Một triều đại có thể được gọi với nhiều hơn một tên tiền tố có mức độ phổ biến khác nhau. Ví dụ, Tây Hán thỉnh thoảng được gọi là "Tiền Hán", và Dương Ngô thỉnh thoảng được gọi là "Nam Ngô".[117][118] Các học giả thường xây dựng một đường phân chia lịch sử dành cho những triều đại mà quyền lực cai trị bị gián đoạn. Ví dụ, triều Tống được phân thành Bắc Tống và Nam Tống, với Sự kiện Tĩnh Khang là ranh giới; "triều Tống" nguyên thủy do Tống Thái Tổ thành lập, phân biệt với "triều Tống" tái sinh thời Tống Cao Tông.[119] Trong những trường hợp tương tự, tức là triều đại đã sụp đổ chỉ được tái thành lập, thì cần phải có sự phân biệt tên gọi giữa triều đại nguyên thủy và triều đại tái thành lập để phục vụ mục đích sử học. Có hai trường hợp ngoại lệ là Tây Tần và triều Đường, lần lượt bị gián đoạn bởi Hậu Tần và Võ Chu.[120][121] Phạm vi lãnh thổSửa đổiLãnh thổ ước đoán do các triều đại và nhà nước Trung Quốc khác nhau kiểm soát trong suốt chiều dài lịch sử, biểu diễn kèm với đường biên giới Trung Quốc ngày nay. Trong khi những triều đại Trung Quốc chính thống đầu tiên chỉ được thành lập dọc theo sông Hoàng Hà và sông Dương Tử, nhiều triều đại kế tiếp đã tích cực tiến hành bành trướng lãnh thổ.[122][123][124][125][126][127][128][129][130][131][132][133][134] Ở nhiều thời điểm khác nhau, các triều đại Trung Quốc kiểm soát Trung Quốc bản thổ (bao gồm Hải Nam, Ma Cao và Hồng Kông),[122][123][124] Đài Loan,[125] Mãn Châu (cả Nội Mãn lẫn Ngoại Mãn),[126][127] Sakhalin,[128][129] Mông Cổ (cả Nội Mông lẫn Ngoại Mông),[127][130] Việt Nam,[131][135] Tây Tạng,[126][127] Tân Cương,[132] các vùng đất thuộc Trung Á,[127][128] Bán đảo Triều Tiên,[133] Afghanistan[134][136] và Siberia.[127] Triều đại Trung Quốc có diện tích lãnh thổ lớn nhất là triều Nguyên hoặc triều Thanh, tùy theo nguồn tư liệu lịch sử.[11][12][13][14][15][c] Sự thiếu minh bạch này chủ yếu là do đường biên giới phía bắc không rõ ràng của triều Nguyên: một số nguồn mô tả nó nằm ngay phía bắc bờ bắc hồ Baikal, số khác lại cho là nó phải kéo dài tới tận bờ biển Bắc Băng Dương.[137][138][139] Ngược lại, biên giới triều Thanh đã được phân định và củng cố thông qua một loạt hiệp ước quốc tế, và do đó được xác định một cách rõ ràng hơn hẳn. Ngoài việc kiểm soát trực tiếp phần lãnh thổ Trung Quốc, các triều đại Trung Quốc khác nhau còn duy trì quyền bá chủ đối với các quốc gia hay bộ lạc khác, thông qua một hệ thống triều cống.[140] Hệ thống triều cống Trung Quốc tồn tại từ thời Tây Hán cho tới tận thế kỷ 19, khi Chủ nghĩa Trung Quốc trung tâm sụp đổ.[141][142] Các yêu sách lãnh thổ hiện tại mà cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố, đều dựa trên những phần lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của triều Thanh ngay trước thời điểm sụp đổ.[15][143][144][145][146] Danh sách triều đại Trung Quốc chínhSửa đổiDanh sách này chỉ bao gồm các triều đại Trung Quốc chính thường được tìm thấy trong các dòng thời gian lịch sử Trung Quốc đơn giản hóa. Nó không toàn diện và không đại diện cho lịch sử Trung Quốc nói chung.
Nhãn màu Triều đại có vai trò tương đối quan trọng Giai đoạn trọng đại Triều đại trong giai đoạn "Tam quốc" Triều đại trong giai đoạn "Thập lục quốc" Triều đại "Bắc triều" trong giai đoạn "Nam–Bắc triều" Triều đại "Nam triều" trong giai đoạn "Nam–Bắc triều Triều đại "Ngũ đại" trong giai đoạn "Ngũ đại Thập quốc" Triều đại "Thập quốc" trong giai đoạn "Ngũ đại Thập quốc" Tiêu chí loại trừ
Các triều đại thuộc các dạng sau đây cũng bị loại khỏi danh sách:
Niên biểuSửa đổiNiên biểu các giai đoạn chínhSửa đổi
Hạ–Thương–T. Chu Xuân Thu Chiến Quốc Tần–Hán Lục triều Tùy–Đường Liêu–Tống–T. Hạ–Kim–Nguyên Minh–Thanh Quốc–Cộng
Niên biểu các chế độSửa đổiCổng thông tin Trung Quốc
Ghi chúSửa đổi
Tham khảoSửa đổiChú thíchSửa đổi
NguồnSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|