Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Nhảy đến nội dung

Phát triển thị trường vốn Việt Nam, gia tăng niềm tin từ tăng cường bảo vệ nhà đầu tư

Thứ Tư, 15:26, 23/02/2022

Tuy nhiên, một số giải pháp cũng được các chuyên gia đề xuất để thúc đẩy tốc độ phát triển của thị trường vốn Việt Nam. Trong đó, cần chú trọng giải pháp tăng cường bảo vệ nhà đầu tư, từ đó gia tăng niềm tin đối với thị trường và tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Theo đánh giá của Nhóm Công tác thị trường vốn của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và phần mềm của thị trường. Việt Nam có hệ thống pháp luật vững chắc nhưng vẫn cần phải hoàn thiện thêm để đảm bảo tính thống nhất của các quy định pháp luật áp dụng cho thị trường nợ, thị trường chứng khoán. Đồng thời, triển khai hệ thống giao dịch chứng khoán mới hiệu quả và đáng tin cậy, xây dựng cơ chế đối tác bù trừ thanh toán trung tâm, thành lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp…

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Ảnh minh họa: KT

Ông Dominic Scriven, Trưởng Nhóm Công tác thị trường vốn nhận định: "Sự phát triển của thị trường vốn phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của nhà đầu tư, điều này chỉ được gây dựng thông qua việc nâng cao tính minh bạch và công bằng của thị trường. Cần áp dụng biện pháp trừng phạt thoả đáng với các hành vi vi phạm và thực thi các cơ chế bảo vệ nhà đầu tư, đặc biệt là tại thị trường Việt Nam hiện có sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân, chiếm 93% giao dịch hàng ngày".

Các nhà đầu tư nước ngoài cũng khuyến nghị, cần đa dạng đối tượng tham gia thị trường vốn, phát triển và kêu gọi sự tham gia của các đối tượng khác, như khuyến khích các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm và các loại hình nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư chuyên nghiệp khác.

Phản hồi về đề xuất của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư quốc tế, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi khẳng định: "Bộ Tài chính đã tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo cho thị trường vốn, trong đó có thị trường chứng khoán hoạt động công khai minh bạch, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư".

Thị trường vốn Việt Nam được đánh giá là đang có bước phát triển mạnh mẽ và tích cực. Điều quan trọng trong thời gian tới là sự phối hợp chặt chẽ của các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân, các thành viên thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Theo đó, thị trường vốn sẽ phát triển vượt bậc hơn, đáp ứng kỳ vọng của các nhà đầu tư cũng như cộng đồng doanh nghiệp.

Theo tính toán của nhóm công tác thị trường vốn VBF: Tổng giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán Việt Nam đạt xấp xỉ 340 tỷ USD, tương đương 100% GDP, vượt mục tiêu Chính phủ đã đề ra. Năm 2021, số tài khoản đầu tư chứng khoán mới tham gia thị trường đã tăng 56%, tương đương với 1,5 triệu cá nhân thực hiện khoản đầu tư đầu tiên trên thị trường (nhà đầu tư F0), nhiều nhà đầu tư đã coi đây là kênh tích lũy tài sản. Thị trường chứng khoán Việt Nam có tỷ suất sinh lợi tốt nhất trong vòng 10 năm so với các thị trường lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, ông Dominic Scriven, Trưởng nhóm công tác thị trường vốn của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) đánh giá: mặc dù Việt Nam có một nền kinh tế mở đáng kể, nhưng sự tham gia của nhà đầu tư quốc tế vào thị trường vốn của Việt Nam còn khá thấp so với mức mà Việt Nam có thể đạt được. “Giải quyết tất cả các vấn đề để thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài có thể không đơn giản, nhưng nếu chúng ta nỗ lực phối hợp thì có thể mang lại kết quả ấn tượng hơn so với tình hình hiện tại. Trước mắt, chúng ta nên đẩy nhanh việc biến TP. Hồ Chí Minh thành một trung tâm tài chính của khu vực, tìm ra những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ trong khu vực như Hong Kong và Singapore” - ông Dominic Scriven đề xuất./.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Hoạt động giám sát này sẽ góp phần làm minh bạch các hoạt động đầu tư trên thị trường, ngăn ngừa các hành vi trục lợi và phát triển thị trường bền vững hơn.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Hoạt động giám sát này sẽ góp phần làm minh bạch các hoạt động đầu tư trên thị trường, ngăn ngừa các hành vi trục lợi và phát triển thị trường bền vững hơn.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động tiêu cực tới nền kinh tế, thị trường chứng khoán tiếp tục tăng trưởng, trở thành điểm nhấn nổi bật trong bức tranh tài chính năm 2021 tại Việt Nam. Năm 2021, mặc dù doanh nghiệp niêm yết giảm nhưng giá trị vốn hoá trên HNX vẫn tăng 130%.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động tiêu cực tới nền kinh tế, thị trường chứng khoán tiếp tục tăng trưởng, trở thành điểm nhấn nổi bật trong bức tranh tài chính năm 2021 tại Việt Nam. Năm 2021, mặc dù doanh nghiệp niêm yết giảm nhưng giá trị vốn hoá trên HNX vẫn tăng 130%.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Thị trường chứng khoán có thể tiếp tục điều chỉnh trong phiên giao dịch hôm nay 4/11 và chỉ số VN-Index sẽ kiểm định mức 1.420 điểm. Đồng thời, dòng tiền có thể sẽ phân hóa giữa các nhóm cổ phiếu, đặc biệt là nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn có thể dẫn dắt đà tăng của thị trường.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

VOV.VN - Thị trường chứng khoán có thể tiếp tục điều chỉnh trong phiên giao dịch hôm nay 4/11 và chỉ số VN-Index sẽ kiểm định mức 1.420 điểm. Đồng thời, dòng tiền có thể sẽ phân hóa giữa các nhóm cổ phiếu, đặc biệt là nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn có thể dẫn dắt đà tăng của thị trường.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường vốn ở Việt Nam

PGS., TS. Nguyễn Thị Mùi, ThS. Nguyễn Minh Dũng

08:14 25/11/2013

(Tài chính) Trong kinh tế thị trường, thị trường vốn được coi là một trong những thành tố không thể thiếu của nền kinh tế. Để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững, phải có thị trường vốn phát triển. Phát triển thị trường vốn – nơi diễn ra cung và cầu vốn của nền kinh tế sẽ có cơ hội thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo điều kiện sử dụng đồng vốn hiệu quả cao.

Vai trò của thị trường vốn

Vai trò của thị trường vốn thể hiện ở các yếu tố sau:

Thứ nhất, thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Thông qua việc phát hành và mua bán chứng khoán, dòng vốn di chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thị trường vốn giúp các doanh nghiệp (DN), tổ chức kinh tế, cá nhân... có cơ hội để trở thành nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ đầu tư, mua bán chứng khoán và các công cụ tài chính trên thị trường để kiếm lời.

Chính phủ trung ương và địa phương có thể vay nợ các tổ chức, DN, dân cư thông qua việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn, thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, cũng như đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển của trung ương/địa phương.

Thứ hai, thị trường vốn tạo tính thanh khoản cho chứng khoán và các công cụ tài chính, khi các nhà đầu tư cần tiền. Nhờ đó, họ có thể tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn để hưởng lợi (thường lãi của các chứng khoán và công cụ tài chính cao hơn lãi tiền gửi tiết kiệm).

Thứ ba, phát triển thị trường vốn để thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Đây là kênh đầu tư hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Với những thông tin công khai, minh bạch, thị trường vốn là nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể phân tích, nhận định, đánh giá “sức khỏe” của DN, ngân hàng để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý. Họ đầu tư bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường hoặc góp vốn vào DN, ngân hàng để trở thành các cổ đông chiến lược.

Thứ tư, thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán (TTCK) là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh của DN. Thông qua thị trường vốn, những nhà đầu tư có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Cơ quan quản lý thường thông qua thị trường vốn để phân tích, dự báo, ban hành các văn bản pháp lý để điều tiết và quản lý thị trường một cách hiệu quả.

Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, phát triển thị trường vốn dễ nảy sinh những hành vi lừa đảo, giao dịch nội gián, hiện tượng đầu cơ chứng khoán, thị trường vốn ngầm.... Do đó, cần nhận thức rõ và có chính sách và biện pháp phù hợp để thị trường vốn luôn phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh, phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam

Thị trường vốn tín dụng ngân hàng: Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã quan tâm đến việc tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được cải thiện về năng lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã hội trên GDP cao nhất thế giới.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội nhập WTO đều ở mức cao; Đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất nhập khẩu liên tục ghi nhận các kỷ lục mới; đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp vào năm 2011. Những động thái này đã tạo cung vốn lớn cho nền kinh tế thông qua thị trường vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia trên thị trường (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, DN, các quỹ đầu tư...) cần phải tăng quy mô hoạt động, cải thiện tiềm lực tài chính, mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ trong kinh doanh để nâng cao năng suất lao động.

Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do thị trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị trường vốn. Có thể thấy rõ sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể tham gia thị trường, tình trạng sở hữu chéo giữa DN với ngân hàng, giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng với nhau…

Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn. Thị trường cổ phiếu tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình cổ phần hóa DN nhà nước (DNNN), nhưng quy mô thị trường cổ phiếu vẫn nhỏ. Mức độ vốn hóa trên thị trường (của các công ty niêm yết) so với GDP đã được cải thiện và đạt 39%/GDP vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống còn 26% vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới). Vì thế, khi tín dụng cho nền kinh tế giảm, hệ số giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế giảm (năm 2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9 tháng năm 2013 chỉ còn 1,2 lần), điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của người lao động.

Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho DN nhưng do khó khăn từ nền kinh tế, khó khăn từ nội tại các DN và ngân hàng, những điểm nghẽn của nền kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không được giải quyết rốt ráo, trong khi giá vốn rất cao (lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức 13-15%/năm, năm 2013 ở mức 10 -12%/năm), quá sức chịu đựng của DN.

Tình trạng nhiều DN không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho tăng cao (năm 2012 bình quân khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%), năng lực cạnh tranh thấp, kinh doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ chiếm gần 66%)… dẫn đến nhiều DN phá sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo theo cầu về vốn giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ dừng lại ở con số 8,91% so với mục tiêu được

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra là 15-17%, 9 tháng đầu năm 2013 tăng 6,14% so với chỉ tiêu 12%/năm. Nợ xấu và tốc độ tăng nợ xấu. Điều này không có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên mà do hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại nợ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã giảm xuống còn 4,64%.

Thị trường chứng khoán: Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn nhưng kinh tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà đầu tư và sự phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu đã tăng khá mạnh. Chỉ số VN-Index tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương đương gần 1.661 tỷ đồng/phiên.

Tuy nhiên, các giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có dấu hiệu chững lại do thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ đầu tư ngoại có những hoạt động thoái vốn. Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 8/2013, khối ngoại đã bán ròng với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ đồng và 881 tỷ đồng, dẫn đến thị trường cổ phiếu bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.

Như vậy, mặc dù vẫn được xem là thị trường có tốc độ tăng trưởng khá so với năm 2012 nhưng TTCK vẫn tiềm ẩn những rủi ro ngắn hạn, tính thanh khoản còn thấp. Thị trường trái phiếu DN vẫn chưa phát triển, ngân hàng vẫn là thành viên chủ chốt tham gia thị trường này. Những bất cập này đã hạn chế việc cung cấp vốn với giá cạnh tranh cho các DN.

Nguyên nhân của thực trạng này được xem từ sự yếu kém nội tại của các thành viên tham gia thị trường (ngân hàng, công ty chứng khoán, DN...), từ thể chế thị trường trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý, vai trò của các cơ quan quản lý có liên quan đến quá trình giám sát, cũng như việc tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, các công cụ và phương tiện thanh tra, giám sát. Thực tiễn cho thấy kỷ luật thị trường cũng chưa đủ chặt chẽ để điều chỉnh, giám sát, đảm bảo thị trường vốn phát triển ổn định và hiệu quả.

Giải pháp phát triển thị trường vốn an toàn và hiệu quả

Thứ nhất, kiện toàn thể chế thị trường vốn: Về khung pháp lý, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống khung pháp lý điều tiết thị trường. Trên cơ sở tham chiếu thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để có sự điều chỉnh phù hợp, phát triển các thể chế còn đang khuyết, nhằm đảm bảo tính đồng bộ của khung pháp lý, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường chủ động hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, song vẫn đảm bảo các yêu cầu thận trọng, an toàn đối với khu vực tài chính, với vấn đề ổn định vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế.

Hoàn thiện chế tài xử phạt khi có vi phạm, gắn kết được lợi ích với rủi ro ở mức nhất định. Đẩy mạnh việc hợp tác, tư vấn, nghiên cứu để hoàn thiện môi trường pháp lý cho thị trường nói chung và dịch vụ nói riêng như dịch vụ uỷ thác, giao dịch các công cụ phái sinh... thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn theo chiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa sự tham gia của các các định chế tài chính trong và ngoài nước.

Rà soát mô hình tổ chức kinh doanh vốn, chứng khoán, các tổ chức tự quản, các quỹ đầu tư; Sửa đổi Luật Chứng Khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, xây dựng Luật Kiểm toán độc lập cũng như các quy định về chào bán, niêm yết, giao dịch, quản lý các giao dịch vốn... cho phù hợp với với lộ trình WTO cũng như tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) về lĩnh vực ngân hàng – chứng khoán.

Thứ hai, tiếp tục thực hiện tái cấu trúc thị trường vốn gắn với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế: Cơ cấu lại TTCK đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu, trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh, từng bước nâng cao vai trò của TTCK trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phát triển về quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường trái phiếu (chính phủ, địa phương và DN), hoàn thiện phương thức phát hành, xây dựng cơ chế khuyến khích các DN thuộc các thành phần kinh tế huy động vốn qua TTCK.

Tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung thông qua việc đẩy mạnh phát hành mới, sử dụng các công cụ phái sinh để hoàn thiện cấu trúc thị trường. Xây dựng cơ chế công bố thông tin theo chuẩn mực quốc tế, áp dụng các chuẩn mực quản trị công ty, quản trị rủi ro, chuẩn hóa các quy định về giao dịch, mua bán, đăng ký, thanh toán theo thông lệ quốc tế.

Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc DN gắn với cổ phần hóa DNNN, DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường. Đa dạng hóa các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường và đầu tư lâu dài vào TTCK Việt Nam.

Đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần rà soát các cơ chế chính sách, tạo môi trường cho các tổ chức tín dụng hoạt động. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản cho phù hợp với lộ trình hội nhập; Nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; Rà soát vốn thực có của các ngân hàng thương mại để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II, tiến tới Basel III...

Những văn bản này phải được điều chỉnh phù hợp với lộ trình cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng và phải tương đối ổn định để các tổ chức tín dụng chủ động và tiên liệu được những rủi ro nảy sinh khi thay đổi chính sách.

Mặt khác, thông qua vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không bao cấp cho ngân hàng (cả ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước và NHTM cổ phần), nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro bằng cơ chế chính sách hay các mệnh lệnh hành chính; kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát theo rủi ro, có chế tài đủ mạnh để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật chơi” đã quy định.

Thứ ba, tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường vốn: Tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán để có tiềm lực tài chính mạnh, uy tín, trình độ nghiệp vụ cao, quản trị hiện đại, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và tính an toàn hệ thống, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực; Tiếp tục phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và thị trường vốn.

Về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Đối với các NHTM cổ phần yếu kém, sau khi tái cấu trúc phải có sự chuyển biến mới về chất (vốn, trình độ quản trị, công nghệ thông tin, mức độ an toàn vốn, tính minh bạch). Đối với các NHTM nhà nước, tiếp tục giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài tại mỗi ngân hàng tùy theo quy mô và phạm vi hoạt động của từng ngân hàng; Giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng, buộc các ngân hàng phải minh bạch trong kinh doanh.

Hiện nay, để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, trước hết và cần thiết phải giải quyết triệt để nợ xấu. Mặc dù ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp, song đa phần các giải pháp này có tính chất ngắn hạn, vì thế nếu thiếu sự vào cuộc của các bộ ngành thì nền kinh tế vẫn khó khăn, do nợ xấu không được xử lý dứt điểm.

Một vấn đề khác, đó là sở hữu chéo giữa DN và ngân hàng, giữa ngân hàng với công ty chứng khoán, cần có lộ trình và biện pháp cứng rắn để xử lý sở hữu chéo trong việc thực hiện tái cấu trúc đi đôi với hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, hạn chế và đi tới chấm dứt lợi ích nhóm tháo túng trên thị trường vốn tín dụng ngân hàng… để giúp khơi thông tín dụng cho nền kinh tế.

Bên cạnh đó, cần hình thành và phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cho thị trường vốn. Sự phát triển của thị trường vốn khiến cả cơ hội đầu tư và rủi ro đầu tư đều tăng lên. Nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn hơn nhằm thu lợi cao hơn từ khoản đầu tư này, song rủi ro trong đầu tư cũng tăng lên vì họ không hiểu hết những chủ thể sử dụng vốn của mình.

Do đó, để biết được mức độ rủi ro của mỗi khoản đầu tư, cần có hoạt động xếp hạng tín nhiệm mức độ rủi ro của các khoản đầu tư (chủ yếu là các khoản vay nợ) trên thị trường vốn. Những thông tin về chỉ số tín nhiệm của các DN, các ngành trong nền kinh tế sẽ giúp các nhà đầu tư có định hướng tốt hơn mỗi khi ra quyết định đầu tư.

Thứ tư, về công khai thông tin trên thị trường: Để có một thị trường vốn hiệu quả, thì một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu là xây dựng cơ chế công khai thông tin.Trên thị trường vốn, mọi hoạt động đều được thể chế hóa bằng các quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ về thị trường nhằm tạo ra một thị trường trung thực, trật tự và có hiệu quả, đồng thời, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.

Thị trường vốn phát triển, đòi hỏi phải quan tâm đến tính minh bạch của thị trường, tạo dựng được lòng tin để thu hút những chủ thể cung cấp vốn và những chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn tham gia thị trường, làm cho thị trường có thể phát huy tối đa vai trò của nó.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả kiểm soát vốn: Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững, Việt Nam cần có một lượng lớn vốn đầu tư tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, khi dòng vốn vào không được kiểm soát, sử dụng không hiệu quả, thì bất ổn tài chính sẽ nảy sinh. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách để đối phó với dòng chảy vốn trong giai đoạn đầu hội nhập.

Kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hợp các chính sách để đối phó với dòng chảy vốn, thường là công khai các biện pháp kiểm soát vốn và lộ trình thay đổi nếu có để các nhà đầu tư nắm bắt và có phản ứng thích hợp. Kiểm soát vốn một khi được kết hợp với những chính sách khác sẽ làm thay đổi cấu trúc của dòng vốn chảy vào theo hướng khuyến khích các dòng vốn đầu tư dài hạn, hạn chế dòng tiền nóng mang tính đầu cơ ngắn hạn, từ đó giảm thiểu được rủi ro “đảo ngược dòng vốn” gây khủng hoảng.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội 2013 và 2011-2013;

2. ADB, “Financial Mananagment and Analysis of Projects”, 2005;

3. IMF (2012). “Financial Soundness Indicators (FSIs)”;

4. Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam, năm 2013;

5. Chiến lược tài chính Việt Nam 2013;

6. Tổng quan và triển vọng ngành Ngân hàng Việt Nam, KPMG 9/2013.

In bài viết

thị trường vốn kinh tế thị trường cung và cầu vốn nguồn vốn trong và ngoài nước kênh huy động vốn công cụ tài chính

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

    Tăng tốc với EVFTA: Ngành dệt may sẵn sàng cho cột mốc 1/8

  • Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

    Gia tăng đầu tư để đưa thêm hàng Việt Nam vào EU

  • Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

    DATC xử lý tốt nợ xấu của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp

Tin nổi bật

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ thăm, làm việc tại Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Thu nộp ngân sách 1.917 tỷ đồng từ xử lý buôn lậu, gian lận thương mại

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Đề xuất tiếp tục gia hạn thuế, tiền thuê đất cho doanh nghiệp

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Đề xuất gia hạn thuế tiêu thụ đặc biệt cho doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước

Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải pháp phát triển

Dự báo tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp chế biến, chế tạo và xây dựng quý II