So sánh bản dịch nghĩa nam quốc sơn hà

Sách Ngữ văn lớp 7, Tập 1 đăng bài thơ Nam quốc sơn hà, sử dụng bản dịch của dịch giả Lê Thước - Nam Trân: Sông núi nước Nam vua Nam ở/Vằng vặc sách trời chia xứ sở/Giặc dữ cớ sao phạm đến đây/Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Bản dịch thơ này gây ra những ý kiến trái chiều và có sự so sánh với bản dịch quen thuộc của nhà sử học Trần Trọng Kim.

Bản dịch thơ bài Nam quốc sơn hàcủa Lê Thước - Nam Trân trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, Tập 1. Ảnh: H. P.

Anh Lê Đình Thanh, phụ huynh có con học lớp 7 ở Đống Đa [Hà Nội] chia sẻ, đã đọc qua bản dịch thơ mới và thấy hơi "ngang tai", không hay bằng bản dịch quen thuộc."Bản cũ dễ nhớ, đi vào tiềm thức hàng triệu người Việt, bám rễ qua bao thế hệ. Dù mình đã học hàng chục năm nhưng chỉ cần nhắc lại là đọc vanh vách. Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời", anh đọc lại.

Theo phụ huynh này, đối với văn thơ mỗi người có cách tiếp cận khác nhau. Bản dịch cũ được chấp nhận nhiều hơn thì nên dùng làm bản chính trong sách giáo khoa, những bản còn lại chỉ nên tham khảo để học sinh hiểu biết hơn."Cứ thay đổi liên tục rồi cuối cùng học sinh có biết Nam quốc sơn hà được coilà tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta hay không? Có biết danh tướng Lý Thường Kiệt là ai không? Có nhớ bài thơ ra đời trong lúc vua tôi nhà Lý chống quân Tống xâm lược hay không?", anh đặt vấn đề.

Anh Thanh đề xuất, đối với các bộ môn xã hội như lịch sử, văn học, các nhà biên soạn sách giáo khoa khi có cải biên, thay đổi thì nên lấy ý kiến của học sinh, thầy cô giáo và cả phụ huynh là những người trực tiếp dạy, học và đọc. Không nên liên tục thay đổi để tránh gây ra sự xáo trộn không cần thiết.

Cô Lê Vân, giáo viên dạy lớp 7 ở Cầu Giấy [Hà Nội] có kinh nghiệm dạy văn gần 20 năm cho hay, thực ra bản dịch thơ của Lê Thước - Nam Trân có từ năm 1977, là năm ra đời của cuốn Thơ văn Lý Trần.Song bao thế hệ học trò Việt Nam học văn, học sử đều quen với bản dịch của Trần Trọng Kim và bản này dễ đi vào lòng người."Nếu được chọn để dạy, tôisẽ chọn bản cũ.Trước đây khi dạy, các học trò có hứng thú với bản cũ hơn vì dễ đọc. Bản mới nhiều vần trắc, gây trúc trắc, khó đọc, khó nhớ cho người học", cô nói.

Cô Vân phân tích, học sinh lớp 7 chưa hẳn đã có năng lực cảm nhận bản dịch nào hay hơn, hiểu phiên âm và nhớ được dịch thơ là tốt rồi. Các em được dạy như thế nào thì sẽ nhớ như vậy, khi nghe quen, chấp nhận được bản dịch mới thì lại thấy bản dịch cũ nghe lạ tai. Cũng giống như các thế hệ trước đây, quen với bản dịch cũ bao nhiêu năm, giờ nghe bản dịch mới cứ thấy "ngang phè, chối tai".

Phần nội dung bài thơ trong sách Ngữ văn 7 nằm ở trang 62, 63. Ảnh: H.P.

Nhiều ý kiến đồng tình bản cũ hay hơn nhưngkhông nên vội phê phán bản dịch mới được đưa vào sách giáo khoa.Cô Hoàng Thị Huệ [Thanh Hóa], giáo viên giỏi Văn phân tích, về ý nghĩa thì hai bản dịch thơ không có gì khác nhau. Bản dịch cũ khai thác được âm điệu hào hùng nhưng bản dịch mới lại bám sát được phần phiên âm, dịch rất sát nghĩa.

"Bản dịch mới mất đi âm điệu. Mà trong văn thơ, âm điệu rất quan trọng, là thứ dễ đi vào lòng người, lan tỏa rộng lớn. Học sinh lớp 7 muốn cảm nhận được bài này phải là những em học tốt. Có thể các em chưa hiểu hết được ý nghĩa, song vì âm điệu hào hùng nên vẫn sẽ nhớ. Nên chọn giữ lại bản cũ làm bản chính trong giảng dạy", cô nói.

Tuy nhiên, cô Huệ cũng đặt ra một góc nhìn mới, đó là thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, nên để người đọc, người học được tiếp cận với nhiều bản dịch, được quyền so sánh, mở rộng vấn đề để có cái nhìn sâu sắc hơn, không thể ép người học, người đọc đi theo một lối truyền thống. "Có thể thống nhất một bản dịch là bản chính, những bản còn lại là tham khảo. Toán còn có nhiều cách giảiđể cho ra một đáp số thì văn thơ cũng có thể có những cái nhìn mới mẻ", cô nói.

Anh Tạ Quang Đông, người có kinh nghiệm và uy tín trong cộng đồng biên dịch, phiên dịch, cho rằngkhông nên vội vã phê phán bản dịch mới được đưa vào sách giáo khoa, bởi thơ chữ Hán khi dịch ra có thể có nhiều cách dịch. Không nên vì chưa biết đến các bản dịch khác mà khăng khăng cho rằng bản dịch duy nhất mình biết trong sách cũ là toàn bích.

Anh phân tích, dịch thơ khó hơn dịch văn xuôi. Chữ "vằng vặc" vốn chỉ dùng với "trăng" trong các văn bản truyền thống, được Nam Trân dùng một cách ẩn dụ, ngầm so sánh với sự "soi rọi" rõ ràng, rành mạch của chân lý không thể chối cãi - đất Nam của người Nam. Có thể chấp nhận nét nghĩa mới đó của từ "vằng vặc" trong văn cảnh này, vì dịch thơ rất khó, có lúc cần đưa thêm nét nghĩa mới trong một bài cụ thể. Đôi khi, thậm chí nhiều khi, cũng là do nguyên nhân về vần, về số lượng từ, hay chữ, mà không thể sát được 100% ý.

"Tác giả dịch bài thơ này là dịch giả Nam Trân, một người rất tài năng. Nhiều người học phổ thông sách cũ chỉ biết bản dịch cũ, nay thấy sách mới có bản dịch khác thì sốc, rồi đặt ra những câu hỏi như Nam Trân là ai, Nguyễn Đình Chú có ý gì?. Các bạn đừng vội nghĩ bản dịch kia không giáo dục con cháu mình tinh hoa của bài thơ, cũng đừng kinh sợ là bản dịch không đủ sức làm con cháu mình tự hào dân tộc chống ngoại xâm. Xin đừng nâng quan điểm", anh Đông nói.

Anh khẳng định, cá nhân thích và đánh giá bản dịch phổ biến cao hơn, nhưng "không nhất thiết phải hoảng sợ" và tốt nhất nên giới thiệu cả bản dịch truyền thống để độc giả, người học có điều kiện so sánh, cảm nhận.

Bài thơ Nam quốc sơn hà

Phiên âm

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Dịch thơ của Trần Trọng Kim

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Dịch thơ của Lê Thước - Nam Trân

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ


Ngoài bản dịch thơ của Lê Thước - Nam Trân, trang 63Sách Ngữ văn lớp 7, Tập 1còn dẫn thêm 2 bản dịch.

Bản dịch trên nguyên bản bức sơn mài ở Viện Bảo tàng Lịch sử: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Sách trời phân định đã rạch ròi/ Cớ sao giặc cướp xâm phạm tới/ Chúng bay thất bại hãy chờ coi”.

Bản dịch của nhà thơ, dịch giả Ngô Linh Ngọc: “Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự/ Sách trời định phận rõ non sông/ Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?/ Bay hãy chờ coi, chuốc bại vong”.

Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, Tập 1 do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành.Nhóm tác giả chủ biên gồm Nguyễn Khắc Phi -Nguyễn Đình Chú -Nguyễn Minh Thuyết -Trần Đình Sử.

Hoàng Phương - Lan Hạ

Lê ThướcNam Trân, tác giả bản dịch bài thơNam quốc sơn hàmới được đưa vào sách giáo khoa lớp 7, đều là những dịch giả tiếng tăm một thời. Quận 2 TP HCM còn có con đường mang tên Lê Thước, bởi bên cạnh những cuốn sách mà ông dành nhiều tâm huyết, như Hán văn tân giáo khoa thư [Sách giáo khoa mới về Hán văn], "Truyện cụ Nguyễn Du" và "Sự nghiệp thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ", ông từng giữ nhiều vị trí quan trọng trong ngành văn hóa, giáo dục của chính quyền cách mạng Việt Nam. Cùng thời với ông, Nam Trân cũng sớm tham gia cách mạng. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà Văn Việt Nam. Ông cũng là một trong những giảng viên lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc. Ông chính là người chủ trì dịch tập Ngục trung nhật ký.

Nói về các ông là nói về những cây đa cây đề trong làng chữ nghĩa Hán Nôm.


Bìa cuốn Ngữ văn lớp 7 tập 1 và trang sách in bài thơ Nam quốc sơn hà - Ảnh: H.P.

Bản dịch SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1, trang 62 [Lê Thước và Nam Trân dịch]:

Sông núi nước Nam vua Nam ởVằng vặc sách trời chia xứ sởGiặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Tuy nhiên, bản dịch Nam quốc sơn hà của hai ông chắc chắn không phải là một thành công như những tác phẩm khác, nếu không muốn nói đó là một bản dịch hoàn toàn thất bại.

Thứ nhất, ngay câu đầu tiên các ông đã tùy tiện dịch hai từ "Nam quốc" thành "Nam Việt": Núi sông Nam Việt vua Nam ở. Trong một bài báo [đăng trên báo Giáo dục] phân trần về lý do chọn bản dịch này để đưa vào sách giáo khoa lớp 7, chính ông tổng chủ biên cũng nói rằng phải thay câu này bằng câu của bản dịch cũ, vì nước ta chưa bao giờ mang quốc hiệu Nam Việt [!]

Thứ hai, câu "Tiệt nhiên định phận tại thiên thư" được các ông dịch là "Vằng vặc sách trời chia xứ sở". Sự tùy tiện được đẩy cao hơn một mức nữa bằng việc sử dụng từ láy tượng hình "vằng vặc". Đây là từ dùng để mô tả ánh sáng và không gian ban đêm. Người ta nói "trăng sáng vằng vặc", "trời sao vằng vặc", "vằng vặc trăng soi"... Với việc đặt từ "vằng vặc" bên cạnh "sách trời" vô hình chung các dịch giả đã ví sách trời như mặt trăng, biến cái siêu phàm thành cái hữu hình, biến thứ thiêng liêng thành ra trần thế. Hơn nữa, trong văn hóa phương đông trăng và đêm đều thuộc âm, chỉ sự yếu mềm, không thể đem làm tuyên ngôn độc lập. Việc mang cụm từ "sách trời" ra khỏi vị trí trọng tâm ở cuối câu cũng làm mất đi tính tuyên ngôn mạnh mẽ của nguyên tác.

Sự tùy tiện lên tới đỉnh điểm khi hai dịch giả tự ý thêm vào từ "xứ sở". Không còn là nước, mà là xứ sở. Đó chính là thứ mà nhà nước phong kiến Trung Hoa vẫn "phong" cho các vương triều chư hầu. Trên thế giới, "xứ" cũng được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ phụ thuộc, không có nền độc lập, ví dụ như Xứ Wale. Không có lý gì mà khi tuyên bố nền độc lập ta lại đi xưng là là "xứ sở".

Hai câu tiếp theo càng làm mất đi cái khẩu khí của một bản tuyên ngôn độc lập.

"Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ"

"Nghịch lỗ" mà dịch là "giặc dữ"thì chẳng bằng đưa thêm vũ khí cho giặc, bởi "dữ" bao hàm sức mạnh. Dữ đi liền với ác, nhưng dữ cũng là dữ dội.

Câu cuối "bản tuyên ngôn" bị hai dịch giả biến thành văn nói hoàn toàn khi dùng đại từ nhân xưng "chúng mày". Về ngữ pháp, việc dùng cụm từ "nhất định phải"khiến cho câu này mang ý nghĩa thể hiện ý chí chủ quan, chứ không mạnh mẽ khẳng định một kết cục khách quan tất yếu cho lũ giặc như trong bản dịch cũ: "Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!".

Tóm lại, bản dịch của hai ông làm hỏng tinh thần của nguyên tác về mọi mặt và khiến cho nó trở thành một bài thơ lủng củng, nửa văn nói nửa văn viết. Bộ GD&ĐT lại tùy tiện thay câu đầu, đổi câu sau, khiến cho nó càng lủng củng hơn. Việc ông Tổng chủ biên Nguyễn Khắc Phi nói rằng: "Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa ở nước ta cũng như nước ngoài, cho phép người biên soạn có quyền sửa chữa cho phù hợp nội dung", và rằng việc này đã được thông qua bởi cả một hội đồng, chỉ là bao biện. Nếu không, chỉ có thể đoán rằng bản dịch cũ bị thay thế chính là bởi người dịch là Trần Trọng Kim. Nhưng người ta quên rằng cho dù ông là một trí thức không thuộc phe cách mạng, là Thủ tướng "Chính phủ bù nhìn", thì bản dịch của ông vẫn đi vào lòng dân tộc, giống như nguyên tác vậy.

Nguyên tác chữ Hán:

南 國 山 河

南 國 山 河 南 帝 居截 然 定 分 在 天 書如 何 逆 虜 來 侵 犯

汝 等 行 看 取 敗 虛

Nguyên tác [phiên âm]:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!


Dịch nghĩa [theo Thơ văn Lý- Trần tập]:Sông núi nước Nam, vua Nam ởGiới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trờiCớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạmChúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Sông núi nước Nam vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạm ?

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!"


Bản dịch thơ [Phạm Trần Anh]:Sông núi trời Nam của nước NamSách trời định rõ tự muôn ngànCuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn

Chuốc lấy bại vong lấy nhục tàn


Bản dịch thơ [Ngô Linh Ngọc dịch]:Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự,Sách trời định phận rõ non sông.Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?

Bay hãy chờ coi, chuốc bại vong!


Bản dịch thơ [Bùi Văn Nguyên dịch]:Sông núi nước Nam, Nam đế chủ,Cõi bờ định rõ tại thiên thư.Cớ sao nghịch tặc dám xâm phạm?

Bay liệu, rồi đây chuốc bại hư!


Bản dịch SGK Ngữ văn lớp 7, tập 1, trang 62 [Lê Thước và Nam Trân dịch]:Sông núi nước Nam vua Nam ởVằng vặc sách trời chia xứ sởGiặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Cập nhật lúc:01:05 CH @ 26/11/2015

Video liên quan

Chủ Đề