Quan hệ ngoại giao giữa việt nam - liên bang nga trong giai đoạn hiện nay là quan hệ song phương

Ngày 10/3/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết quốc thư, cử ông Nguyễn Lương Bằng làm Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô. Và tháng 7/1955, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ sang thăm Liên Xô nhằm củng cố tình đoàn kết hữu nghị, tăng cường mối quan hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nước.

Nhân dân Liên Xô cũng luôn dành cho nhân dân Việt Nam những tình cảm nồng thắm và sự giúp đỡ hào hiệp. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ chuyến thăm đầu tiên của Chủ tịch Vôrôsilốp [tháng 5/1957], nhưng hình ảnh vị lãnh đạo cấp cao của Nhà nước Xô Viết vẫn hết sức gần gũi, thân thiết với đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam, như vừa mới diễn ra ngày hôm qua.

Trong những năm tháng cam go nhất của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ chí tình của nhân dân Liên Xô. Không chỉ giúp đỡ về tiền bạc, hiện vật, các chuyên gia Liên Xô còn sang tận nơi giúp Việt Nam phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhiều công trình do Liên Xô giúp xây dựng đã gắn bó với bao thế hệ người dân Việt Nam, đến nay vẫn phát huy hiệu quả tích cực [như trường Đại học Bách Khoa, Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô]. Hàng chục ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành những cán bộ chủ chốt, những chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực.

Quan hệ hợp tác giữa hai nước cũng sớm được quan tâm thúc đẩy, khởi đầu bằng việc ký Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại Việt-Xô ngày 18/6/1955. Chỉ 5 năm sau đó, kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng lên gấp 13 lần [năm 1955 chỉ đạt 5 tỷ rúp]. Và thời kỳ 1976-1980, khối lượng trao đổi hàng hóa giữa hai nước bằng 20 năm trước cộng lại. Những năm cuối thập kỷ 1980, Liên Xô thường chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu và 60% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tình cảm đoàn kết, gắn bó và quan hệ hợp tác tốt đẹp về nhiều mặt Việt-Xô đã đặt nền móng vững chắc cho quan hệ Việt-Nga sau này tiếp tục phát triển lên tầm cao mới.

Sau khi Liên Xô tan rã [tháng 12/1991], quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi giữa Việt Nam và Liên bang Nga tiếp tục được coi trọng và phát triển. Quan hệ hai nước dần phục hồi và ngày càng phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Việc ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang Nga ngày 16/6/1994, nhân chuyến thăm Nga của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hai nước. Tiếp đó, các chuyến thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai bên diễn ra thường xuyên. Đặc biệt, chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tới Liên bang Nga tháng 8/1998 đã tạo bước đột phá mới trong quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Lần đầu tiên, Tổng thống Nga Boris Yeltsin khẳng định: Nga coi Việt Nam là đối tác chiến lược ở Đông Nam Á. Và khuôn khổ quan hệ Việt-Nga trong thế kỷ XXI đã được chính thức hóa bằng việc ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược nhân dịp Tổng thống Nga Vladimir Putin thăm Việt Nam [28/2 đến 2/3/2001]. Việt Nam và Liên bang Nga đã ký hơn 30 văn kiện cấp Nhà nước và Chính phủ, một cơ sở pháp lý đồ sộ cho sự phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai nước trong giai đoạn mới.

Cùng với quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở Liên bang Nga, quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước không ngừng phát triển. Kinh tế, thương mại, nhờ “lực đẩy” của hợp tác chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt - Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, nhất là những năm gần đây đã ghi nhận những bước tiến về chất. Về thương mại, nếu như năm 2000, kim ngạch thương mại hai chiều Việt - Nga chỉ đạt hơn 363 triệu USD, năm 2010 tăng lên gần 2 tỷ USD, đến 10 tháng đầu năm 2019 đạt khoảng 3,77 tỷ USD [giảm 1,93% so với cùng kỳ năm 2018], trong đó Việt Nam xuất khẩu 2,3 tỷ USD [tăng 12,5%], nhập khẩu 1,47 tỷ USD [giảm 18,3%].

Tháng 7/2012 trong chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Khuôn khổ hợp tác này đã tạo động lực mới cho quan hệ Việt Nam - Nga ngày càng phát triển trên mọi lĩnh vực.

Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao, có thể nói quan hệ Việt - Nga trên lĩnh vực này đặc biệt ấn tượng, là điểm sáng với sự tin cậy lẫn nhau rất cao và ngày càng được củng cố thông qua các chuyến thăm các cấp, nhất là cấp cao cũng như thông qua các cơ chế tham vấn, đối thoại chiến lược thường niên, như Đối thoại chiến lược Ngoại giao - Quốc phòng - An ninh cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đối thoại chiến lược Quốc phòng cấp Thứ trưởng... Chỉ trong ba năm 2017 - 2019, hai nước đã tiến hành 7 chuyến thăm lẫn nhau ở cấp cao nhất: Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm Nga vào tháng 6/2017; Tổng thống V. Pu-tin dự Hội nghị Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương [APEC] tại Việt Nam vào năm 2017 và có cuộc gặp cấp cao bên lề Hội nghị; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nga [tháng 9/2018]; Thủ tướng Đ. Medvedev thăm Việt Nam [tháng 11-2018]; Chủ tịch Đu-ma Quốc gia Nga V. Volodin thăm Việt Nam tháng 12-2018 [trong khuôn khổ chuyến thăm này, hai nước đã thành lập Ủy ban liên nghị viện giữa Quốc hội Việt Nam và Đu-ma Quốc gia Nga]; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Nga vào tháng 5/2019; Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân lần đầu tiên thăm Nga trên cương vị Chủ tịch Quốc hội [tháng 12/2019].

Về đầu tư, điểm mới đáng chú ý là đầu tư của Việt Nam vào Nga trong những năm gần đây tăng nhanh. Nếu tính đến tháng 10/2019, Nga có 123 dự án đầu tư trực tiếp ở Việt Nam [trừ dầu khí] với tổng mức đầu tư trên 1 tỷ USD, thì tổng số vốn đầu tư của Việt Nam vào Nga lên tới gần 3 tỷ USD với 22 dự án, nổi bật là đầu tư khai thác các mỏ dầu khí của Nga, hoạt động của Trung tâm đa chức năng Hà Nội - Mát-xcơ-va. Ngoài ra có hơn 200 doanh nghiệp vừa và nhỏ với 100% vốn của người Việt Nam đang hoạt động sản xuất, kinh doanh khá hiệu quả tại Nga.

Năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống, được coi là hiệu quả nhất trong nhiều thập niên qua, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước, hiện được coi là lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa chiến lược đối với cả Việt Nam và Nga, đặc biệt là dầu khí. Điều đáng nói là giờ đây hợp tác dầu khí Việt - Nga đã có sự phát triển mang tính đột phá về quy mô và lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh Liên doanh Vietsovpetro, Gazprom và Rosneft đang gia tăng sự hiện diện ở Việt Nam, còn có liên doanh Rusvietpetro, Vietgazprom, Gazpromviet đang mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu khí ở cả hai nước.

Lĩnh vực an ninh - quốc phòng là lĩnh vực hợp tác có bề dày truyền thống giữa hai nước, được đánh giá là ổn định, vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực và đạt hiệu quả cao. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục coi Nga là đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực này. Tại Đối thoại chiến lược quốc phòng Việt - Nga lần thứ tư tổ chức tại Mát-xcơ-va [tháng 12/2018], lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước thống nhất nhận định quan hệ hợp tác quốc phòng tiếp tục là trụ cột và là hướng ưu tiên phát triển vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên cơ sở quan hệ hữu nghị truyền thống, đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Nga.

Quan hệ Việt - Nga trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - giáo dục, cũng ngày càng đạt kết quả cao hơn. Hợp tác song phương trong lĩnh vực khoa học - công nghệ phát triển khá năng động, trở thành một trong những trụ cột của quan hệ Việt - Nga. Điểm sáng nổi bật của sự hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam và Nga trong lĩnh vực này là Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga - cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hỗn hợp đa ngành về nhiệt đới - được triển khai theo hướng kết hợp nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, đáp ứng lợi ích của cả hai nước và phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Điều làm nên sự gắn bó lâu dài của quan hệ hữu nghị Việt - Nga chính là sự đồng điệu về tâm hồn và tình cảm, là sự tương đồng về cốt cách dân tộc mạnh mẽ và bản lĩnh kiên cường, là ý chí và khả năng vượt qua những thách thức nghiệt ngã, không chịu khuất phục trước cường quyền, đặc biệt là những điểm song trùng về lợi ích quốc gia - dân tộc. Tình hữu nghị giữa hai dân tộc được xây đắp trong những năm tháng cam go đấu tranh giành độc lập, chủ quyền của Việt Nam, được thử thách qua những biến thiên, thăng trầm của bối cảnh thế giới và khu vực cũng như của hai nước. Tự hào nhìn lại chặng đường 70 năm quan hệ hợp tác hữu nghị, chúng ta tin tưởng rằng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga tiếp tục phát triển, vượt qua mọi thách thức và khó khăn, xứng đáng với truyền thống hữu nghị gắn bó lâu đời giữa hai đất nước, hai dân tộc.

T.V.T

Từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao [ngày 30/01/1950], Việt Nam và Liên Xô đã triển khai quan hệ song phương, trước hết bằng việc ký kết một số hiệp định, hiệp nghị, hiệp ước hợp tác trên các lĩnh vực. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.

Tự hào về quá khứ

Đáp ứng tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sẵn sàng kiến lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, ngày 30/1/1950, Liên Xô là một trong những nước đầu tiên công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày này đã đi vào lịch sử quan hệ song phương Việt Nam - Liên Xô, là một dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt giữa hai dân tộc và quan hệ hợp tác sâu rộng và toàn diện giữa hai quốc gia.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm thiếu nhi Việt Nam và Liên Xô tại trại hè quốc tế ở Tukovo - Liên Xô [16/7/1957]. Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam

Sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình và đầy hiệu quả về chính trị, kinh tế và quân sự của nhân dân Liên Xô dành cho nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước đã góp phần quan trọng giúp nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng với Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trong công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, Việt Nam tiếp tục nhận được sự giúp đỡ to lớn và toàn diện của Liên Xô. Hàng chục ngàn cán bộ, chuyên gia Việt Nam được đào tạo tại Liên Xô đã trở thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. Với sự hỗ trợ của Liên Xô, các ngành chủ chốt của nền kinh tế quốc dân Việt Nam như năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật, văn hóa - giáo dục... đã được xây dựng và không ngừng phát triển, phục vụ đắc lực cho công cuộc kiến thiết đất nước. Trong giai đoạn này, sức mạnh của quan hệ Việt - Xô được tạo ra từ hình mẫu của tình
hữu nghị quốc tế trong sáng và thủy chung.

Quan hệ Việt - Nga ngày nay đã kế thừa quan hệ Việt - Xô với tài sản quý báu là những thành quả to lớn của tình hữu nghị và hợp tác truyền thống khởi nguồn từ những năm trước. Sau những nỗ lực khôi phục và phát triển quan hệ song phương trong những năm 90 của thế kỷ 20, năm 2001, Việt Nam và Nga đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và đến năm 2012 nâng cấp lên quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, đáp ứng yêu cầu hợp tác song phương trong thời kỳ mới của mỗi nước.

Thành quả của hiện tại

Trong gần hai thập kỷ triển khai quan hệ đối tác chiến lược và tám năm triển khai quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, quan hệ Việt - Nga đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa và phát triển ở mỗi nước. Kết quả đó thể hiện quyết tâm chính trị và cách tiếp cận mới của lãnh đạo cấp cao hai nước trong việc tăng cường hợp tác song phương.

Tổng thống Liên bang Nga V.Putin đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TRÍ DŨNG [TTXVN]
Về chính sách và cơ chế hợp tác, hai bên thực sự coi trọng và có nhu cầu hợp tác với nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, vị trí của mỗi nước trong chính sách đối ngoại của nhau tăng đáng kể. Nét nổi bật của quan hệ chính trị Việt - Nga là có độ tin cậy cao với các hình thức hợp tác đa dạng. Hai bên đã thiết lập được cơ chế tiếp xúc cấp cao thường niên, hợp tác chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế, nhất là tại Liên hợp quốc cũng như các tổ chức do ASEAN làm nòng cốt. Hợp tác theo kênh Đảng, Quốc hội, các tổ chức xã hội, đoàn thể hai nước được thúc đẩy mạnh mẽ, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ song phương. Hợp tác kinh tế Việt - Nga ngày càng được tăng cường với bốn lĩnh vực trụ cột gồm thương mại, đầu tư, dầu khí và năng lượng điện. Kim ngạch song phương từ mức 500 triệu USD năm 2001 đã đạt 6,1 tỷ USD  năm 2018. Hợp tác trong lĩnh vực dầu khí không ngừng phát huy hiệu quả đối với nền kinh tế mỗi nước. Không chỉ dừng lại ở hướng truyền thống là thăm dò và khai thác, hai bên đang mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực mới là lọc hóa dầu, sản xuất nhiên liệu cho động cơ chạy khí và Nga cung cấp dầu thô dài hạn cho Việt Nam. Ngành điện hạt nhân đang đặt dấu ấn mới cho quan hệ giữa hai nước với việc triển khai dự án nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam. Với sự hỗ trợ của Nga, ngành điện hạt nhân sẽ phát triển bền vững tại Việt Nam, trở thành biểu tượng mới của hợp tác song phương, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng cho Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, hợp tác quốc phòng - an ninh và kỹ thuật quân sự đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ Việt - Nga. Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều thay đổi nhanh chóng, hai bên cần hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực này, đóng góp thiết thực vào việc duy trì môi trường hòa bình và ổn định, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế ở mỗi nước, thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga.

Hợp tác giao lưu nhân dân tiếp tục giữ vai trò là cầu nối gắn kết hai dân tộc. Mỗi năm có hàng trăm ngàn du khách Nga và Việt Nam thăm viếng lẫn nhau. Cộng đồng người Việt với gần 10 ngàn người hiện đang sinh sống làm ăn kinh doanh tại Nga, luôn gắn bó và coi Nga là quê hương thứ hai của mình, hàng ngàn lưu học sinh Việt Nam đang được đào tạo tại các cơ sở giáo dục uy tín của Nga. Chính mối quan hệ, sự giao lưu và kết nối giữa nhân dân hai nước đã gắn kết hai quốc gia, góp phần không ngừng củng cố quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga.

Niềm tin vào tương lai

Hai mươi năm đầu của thế kỷ 21 đã trôi qua với nhiều biến động. Xu thế toàn cầu hóa, liên kết khu vực, cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, các vấn đề phát triển, chiến tranh và hòa bình, cạnh tranh và hợp tác sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ đến cục diện thế giới trong những năm tới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn là đầu tầu tăng trưởng của thế giới nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức. Do đó, việc củng cố và phát huy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga, phục vụ sự nghiệp phát triển ở mỗi nước, góp phần vào công cuộc duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Với quá khứ đầy tự hào, những thành quả to lớn của hiện tại, với quyết tâm và mong muốn của lãnh đạo và nhân dân hai nước, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào tương lai tươi sáng của quan hệ Việt - Nga. Việc phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga tuân th các định hướng lớn gồm tăng cường quan hệ chính trị tin cậy thông qua trao đổi đoàn lãnh đạo cấp cao thường niên, trao đổi đoàn theo các kênh Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đoàn thể - xã hội, tiếp tục ủng hộ lẫn nhau và phối hợp lập trường chặt chẽ trên các diễn đàn quốc tế. Trong hợp tác kinh tế, hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các dự án trong các lĩnh vực trụ cột. Đẩy mạnh hợp tác an ninh - quốc phòng trên cơ sở tin cậy, lâu dài, hợp tác nhân văn không ngừng được chú trọng và mở rộng để tạo nền tảng xã hội cho quan hệ Việt - Nga phát triển vững chắc.

Trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam tháng 11/2013, Tổng thống V. Pu-tin nói: “Quan hệ giữa Nga và Việt Nam có tính chất đặc biệt, thậm chí còn hơn cả chiến lược. Theo đúng nghĩa của từ này, hai nước chúng ta cùng có quá khứ anh hùng trong lao động cũng như trong chiến đấu, trong đó có cả cuộc đấu tranh vì độc lập của Việt Nam. Hợp tác song phương giữa hai nước có triển vọng và tương lai tốt đẹp”[1]. Gần thế kỷ qua đã khẳng định quan hệ Việt - Nga được xây dựng và phát triển trên nền tảng của tình hữu nghị gắn bó giữa hai dân tộc và đã được kiểm chứng qua những biến động của lịch sử. Tiếp tục củng cố và không ngừng phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt - Nga, phát huy truyền thống tương trợ và luôn ủng hộ lẫn nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào chính là nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên toàn thế giới.

B.V.D

  1.  Báo Nhân dân điện tử, ngày 13/11/2013.

Video liên quan

Chủ Đề