Quai bị là như thế nào

Đến nay, bệnh quai bị vẫn không có thuốc điều trị đặc hiệu. Tác nhân gây ra bệnh là do virus vì thể sử dụng thuốc kháng sinh sẽ không có tác dụng. Tuy vậy, hầu hết trường hợp, người bệnh (trẻ em hay người lớn) thường phục hồi trong vòng vài tuần nếu không gặp biến chứng gì.

Nguyên tắc trong điều trị quai bị là hạn chế vận động tối đa, chăm sóc tốt cho người bệnh nhất là trong thời gian toàn phát. Bên cạnh đó, bạn cần điều trị chống viêm tinh hoàn, buồng trứng, viêm tụy, viêm màng não và chỉ dùng kháng sinh khi xảy ra bội nhiễm vi khuẩn theo chỉ định của bác sĩ. Các trường hợp bệnh nặng có thể cần dùng phối hợp globulin miễn dịch.

Một số biện pháp hỗ trợ điều trị tại nhà

Nghỉ ngơi là biện pháp tốt nhất để cơ thể phục hồi hoàn toàn. Song song đó, bạn có thể thực hiện một số biện pháp để giảm đau và khó chịu, đồng thời phòng tránh virus lây truyền sang người xung quanh:

  • Cách ly người bệnh với mọi người để ngăn ngừa lây truyền virus quai bị.
  • Dùng thuốc giảm đau không kê đơn như paracetamol để giảm bớt triệu chứng đau.
  • Chườm ấm hoặc chườm mát để giảm bớt khó chịu ở vùng bị sưng.
  • Tránh ăn những thực phẩm cứng, rắn, cần phải nhai nhiều. Thay vào đó, bạn nên ăn cháo, những thực phẩm mềm hay có dạng lỏng.
  • Tránh ăn thực phẩm có vị chua, như trái cây, nước ép cam quýt vì gây kích thích tiết nước bọt.
  • Uống nhiều nước.

Quai bị là như thế nào

Bệnh quai bị có nguy hiểm không?

Rất hiếm khi có ca bệnh gặp phải biến chứng nhưng khi có thường khá nghiêm trọng. Các biến chứng quai bị phần lớn liên quan đến tình trạng viêm và sưng ở một số bộ phận khác của cơ thể, như:

  • Tinh hoàn: Viêm tinh hoàn có thể xảy ra làm cho một hoặc cả hai tinh hoàn bị sưng lên ở những bé trai đến tuổi dậy thì. Tình trạng này gây đau đớn, khó chịu nhưng hiếm khi gây vô sinh sau này.
  • Não: Virus quai bị có thể gây ra viêm não dẫn đến nhiều vấn đề thần kinh, thậm chí đe dọa tính mạng.
  • Màng và dịch não tủy: Khi virus nhiễm vào máu và đi đến hệ thống thần kinh trung ương gây viêm nhiễm, người bệnh có thể bị viêm màng não.
  • Tuyến tụy: Nếu bị viêm tụy, người bệnh có các dấu hiệu và triệu chứng gồm đau bụng phía trên, buồn nôn và nôn mửa.

Các biến chứng quai bị có nguy cơ xảy ra gồm:

  • Mất thính lực, có thể ở một hoặc cả hai tai
  • Vấn đề ở tim như rối loạn nhịp tim, bệnh cơ tim
  • Sẩy thai nếu mẹ bầu bị quai bị khi đang mang thai, đặc biệt là ở giai đoạn đầu thai kỳ

Phòng ngừa bệnh quai bị như thế nào?

Cách tốt nhất để phòng ngừa bệnh hiện nay là tiêm vắc-xin quai bị. Hầu hết mọi người đều tạo được khả năng miễn dịch với virus gây bệnh sau khi tiêm phòng đầy đủ.

Vắc-xin này thường được tiêm ở dạng kết hợp phòng 3 bệnh sởi – quai bị – rubella (MMR). Tất cả trẻ em nên được tiêm đủ hai mũi vắc-xin trước khi đi học vào lúc:

  • Từ 12–15 tháng tuổi
  • Từ 4–6 tuổi

Bạn cần phải tiêm đủ hai liều để đảm bảo có hiệu quả trong việc phòng ngừa quai bị.

Một số trường hợp, bác sĩ có thể khuyến cáo tiêm một mũi vắc-xin lần thứ ba nếu bạn đang ở trong một vùng bùng phát dịch quai bị.

Hy vọng những thông tin trên đã giúp bạn biết được bệnh quai bị là gì, nên làm gì khi bị quai bị và cách phòng ngừa quai bị.

Quai bị do virus paramyxovirus gây nên. Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên. Biểu hiện lâm sàng phổi biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Bệnh tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống.Các tuyến nước bọt khác, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.Là một bệnh truyền nhiễm, thường xẩy ra vào mùa đông – xuân. Lây trực tiếp khi gần bệnh nhân nói, ho hoặc hắt hơi. Còn gọi là Lưu Hành Tính Tai Tuyến Viêm, Trá Tai, Trư Đầu Phì, Tuyến Mang Tai Viêm, Trá Tai, Hà Mô Ôn. Thường gặp ở trẻ nhỏ 5~8 tuổi.

Quai bị do virus paramyxovirus gây nên. Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên. Biểu hiện lâm sàng phổi biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Bệnh tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống.Các tuyến nước bọt khác, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.Là một bệnh truyền nhiễm, thường xẩy ra vào mùa đông – xuân. Lây trực tiếp khi gần bệnh nhân nói, ho hoặc hắt hơi. Còn gọi là Lưu Hành Tính Tai Tuyến Viêm, Trá Tai, Trư Đầu Phì, Tuyến Mang Tai Viêm, Trá Tai, Hà Mô Ôn. Thường gặp ở trẻ nhỏ 5~8 tuổi.

I.  NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH QUAI BỊ:

Bệnh có trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ và lứa tuổi vị thành niên, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Bệnh do virus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Khi bị nhiễm bệnh, virus nhân lên trong khoang tỵ hầu và hạch bạch huyết. Virus tăng cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây là từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.

II.  ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:

Hình ảnh mô phỏng tuyến nước bọt bị viêm.

Bệnh có đặc điểm dịch tễ rõ ràng, thường phát vào mùa xuân, nhất là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, trong các môi trường tập thể như trường học, nhà trẻ. Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ. Tuy nhiên ít gặp quai bị ở trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu nếu mẹ đã từng mắc bệnh quai bị. Sau 2 tuổi, tần suất bệnh tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa tuổi 10-19. Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày, người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng 1 tuần. Tuyến mang tai có thể sưng 1 bên hay 2 bên. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến có thể không sưng cùng lúc, tuyến 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng. Vùng sưng thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; có khi lan đến ngực gây phù trước xương ức. Bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng nhưng da trên vùng sưng không nóng và không sung huyết, ngược với những trường hợp viêm tuyến mang tai do vi khuẩn. Lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng đỏ, có khi có giả mạc. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết. Bệnh quai bị gây miễn dịch bền vững khi đã mắc bệnh dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2.

III.  BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH QUAI BỊ:

Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp, nhưng thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể gặp các biến chứng sau:

Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn:  Biến chứng này có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thường. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh.

Nhồi máu phổi: Là tình trạng một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh .

Viêm tụy: Có tỷ lệ 3% - 7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.

Các tổn thương thần kinh: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm tủy sống cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh.

Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.

Một số biến chứng khác: Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu. Vì viêm tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virus khác (Coxackie, Influenza), do vi trùng (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến nước bọt vì sỏi và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét nghiệm như: Phân lập virus từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy. Các phản ứng huyết thanh học: Test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hoà bổ thể.

IV.  PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH QUAI BỊ:

Quai bị là như thế nào
Đối với mọi bệnh nhân: Cách ly bệnh nhân 2 tuần kể từ lúc phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ tiêu hoá, giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng paracetamol. Trường hợp viêm tinh hoàn:  Mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau, nghỉ ngơi là chủ yếu, hạn chế vận động.

Dùng corticoid đúng liều, quan trọng nhất là dùng liều lớn khi khởi đầu (60mg Prednisolon), sau đó giảm dần trong 7-10 ngày. Phẫu thuật giải áp khi tinh hoàn bị chèn ép nhiều.

Vaccin phòng bệnh quai bị có tác dụng kích thích cho trẻ em sản sinh kháng thể kháng quai bị kháng thể đạt mức độ cao nhất sau khi tiêm chủng 6 – 7 tuần.  Số lần tiêm: Nếu bắt đầu tiêm từ 9 tháng tuổi: tiêm 3 lần, lần 1 lúc 9 tháng tuổi, lần 2 sau lần 1 sáu tháng, lần 3 khi trẻ từ 4-12 tuổi. Nếu bắt đầu tiêm từ 12 tháng tuổi: tiêm 2 lần, lần 1 lúc 12 tháng tuổi lần 2 từ 4-12 tuổi. Tiêm chủng khẩn cấp được chỉ định cho trẻ từ 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc quai bị và chưa được tiêm chủng theo lịch phòng bệnh quai bị. Trong trường hợp không có chống chỉ định, vaccin cần được tiêm không muộn hơn 72 giờ kể từ khi có tiếp xúc với bệnh nhân.

Phòng bệnh quai bị thụ động với globulin miễn dịch, dùng cho người tiếp xúc với virus quai bị mà chưa được tiêm vaccin trước đó.

V. SỬ DỤNG  VÀ BẢO QUẢN VACCIN QUAI BỊ:

Phòng bệnh quai bị chủ động với vaccin, thường kết hợp với vaccin phòng sởi và rubella (Trimovax, MMR). Không nên tiêm vaccin cho trẻ dưới 1 tuổi (tuy nhiên nếu trẻ sống trong môi trường tập thể, có thể tiêm phòng từ 9 tháng tuổi), phụ nữ có thai, người bị dị ứng với vaccin, người đang dùng thuốc gây giảm miễn dịch (corticoid, thuốc điều trị ung thư), người đang điều trị bằng tia phóng xạ.

- Các trường hợp dị ứng nặng với Aminoglycozid (Gentamycin sunfat...), trứng gà. Tình trạng suy giảm miễn dịch tiên phát, bệnh ác tính về máu và khối u. Phản ứng mạnh (sốt hơn 40oC, phù nề, đường kính vết đỏ ở nơi tiêm vaccin lớn hơn 8cm) hoặc có các biến chứng trong lần tiêm chủng trước thì không được tiêm vaccin quai bị.

- Vaccin được bảo quản nơi kín, bảo đảm tránh ánh sáng tia mặt trời, tránh ẩm ướt, nấm, chuột bọ... ở nhiệt độ 4o - 8oC. Có thể bảo quản vaccin ở nhiệt độ dưới 0oC.