Nhà nước Âu Lạc tồn tại bảo nhiều năm

Nước Âu Lạc tồn tại trong khoảng thời gian nào?

A. Thế kỉ III TCN đến năm 43.

B. Từ năm 208 TCN đến năm 43.

C. Từ thế kỉ VII TCN đến năm 179 TCN.

D. Từ năm 208 TCN đến năm 179 TCN.

Đáp án: C

Giải thích: Nước Âu Lạc tồn tại trong khoảng thời gian Từ năm 208 TCN đến năm 179 TCN [ năm 208 TCN, nước Âu Lạc ra đời sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần; năm 179 TCN nước Âu Lạc bị nhà Triệu xâm chiếm]

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nước Âu Lạc tồn tại từ 257 đến 208 TCN. Nhưng sách này cũng ghi chép rằng cuộc kháng chiến chống Tần xảy ra năm 214 TCN và quận Tượng do nhà Tần lập là nước ta là quân Tần đã chiếm được nước Âu Lạc, nhưng sau đó lại  chép tiếp cuộc kháng chiến chống Triệu của An Dương Vương từ năm 210 đến 208 TCN. Đây là sự nhầm lẫn và mẫu thuẫn trong chính sử của ta, điều mà các nhà sử học vẫn đang nghiên cứu để xác minh.

Theo giả thuyết về cuộc kháng chiến, liên minh bộ lạc Tây Âu của Thục Phán đã có nhiều mối quan hệ chặt chẽ với nước Văn Lang của Hùng Vương. Mối quan hệ vừa giao lưu, liên kết, vừa đấu tranh, xung đột giữa hai tộc người gần gũi nhau về dòng máu, về địa vực, về kinh tế, văn hóa như vậy là cơ sở và cũng là bước chuẩn bị cho sự hợp nhất hai tộc người Việt  – Tây Âu để mở rộng và phát triển nước Văn Lang. Cuộc kháng chiến chống Tần càng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa xu thế phát triển đó.

Khi tiến vào nước ta, quân Tần xâm phạm trước hết địa bàn cư trú của người Tây Âu. Thục Phán với vai trò thủ lĩnh liên minh bộ lạc Tây Âu, dĩ nhiên phải đứng ra tổ chức và chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Tần. Quân Tần càng tiến sâu về phía nam, càng gặp phải sức chống trả quyết liệt cả người Tây Âu và người Lạc Việt. Các thủ lĩnh người Việt cổ, do yêu cầu của cuộc chiến đấu đã suy tồn Thục Phán lên làm người chỉ huy cao nhất.

Cuộc chiến đấu kéo dài 5 đến 6 năm đã thắt chặt quan hệ đoàn kết gắn bó vốn có người Tây Âu và người Lạc Việt. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến càng củng cố và nâng cao uy tín của Thục Phán không những trong cộng đồng người Tây Âu mà cả trong người Lạc Việt.

Tất cả tình hình diễn ra trước và trong cuộc kháng chiến chống Tần là những bước chuẩn bị cho sự thành lập nước Âu Lạc thay thế nước Văn Lang và chuyển ngôi vua từ Hùng Vương sang An Dương Vương Thục Phán.

Trong cuộc kháng chiến, trên thực tế, cộng đồng cư dân Lạc Việt – Tây Âu đã thành hình. Nhưng việc Thục Phán thay thế Hùng Vương, tự xưng An Dương Vương và lập ra nước Âu Lạc có lẽ được thực hiện sau khi kháng chiến thành công. Đại Việt sử lược chép rằng : “ Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay”  Một số thần tích và truyền thuyết dân gian lại cho rằng, sau nhiều cuộc xung đột, cuối cùng Hùng Vương, theo lời khuyên của con rể là Thanh Tản Viên, đã nhường ngôi cho Thục Phán.

Tên nước Âu Lạc gồm hai thành tố Âu [Tây Âu, Âu Việt] và Lạc [ Lạc Việt], phản ánh sự liên kết hai nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Trong triều vua Thục vẫn có Lạc hầu và các địa phương vẫn do lạc tướng cai quản. Lãnh thổ nước Âu Lạc cũng được mở rộng trên cơ sở hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Tây Âu. Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính, tiêu diệt, mà là một sự hợp nhất cư dân và đất đai của Lạc Việt và Tây Âu, của Hùng và Thục. Vì vậy, nước Âu Lạc là một bước phát triển mới, kế tục và cao hơn nước Văn Lang. Cũng vì vậy, không những người Tây Âu, mà cả người Lạc Việt và con cháu của họ đều coi An Dương Vương Thục Phán là một vị anh hùng có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Theo cuốn dư địa chí Cổ Loa, các nhà sử học cho rằng, Nước Âu Lạc chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, theo giả thuyết trên là khoảng gần 30 năm [khoảng 208 – 179 TCN]. Do đó, thời gian tồn tại của nước Âu Lạc không tách ra thành một thời kỳ lịch sử riêng, mà được coi như một giai đoạn phát triển tiếp tục của nước Văn Lang và cũng nằm trong một thời đại chung: thời đại dựng nước đời Hùng Vương và An Dương Vương.

Kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang. Văn hóa Đông Sơn vẫn là cơ sở văn hóa chung của nước Văn Lang và nước Âu Lạc, nhưng có những bước phát triển mới về một số mặt. Đặc biệt do yêu cầu bức thiết của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, trong thời Âu Lạc, kỹ thuật quân sự có những tiến bộ vượt bậc.

Một cải tiến vũ khí quan trọng của thời kỳ này là việc sáng chế ra loại nỏ bắn một lần nhiều phát tên, thường gọi là nỏ liễu hay loại nỏ liên châu. Loại vũ khí mới lợi hại đó đã được thần thánh hóa thành “nỏ thần” [thần nỗ] trong truyền thuyết dân gian. Năm 1959, khảo cổ học đã phát hiện được ở Cầu Vực, phía nam thành Cổ Loa, cách thành ngoại vài trăm mét, một kho mũi tên đồng gốm hàng vạn chiếc. Đó là một loại mũi tên gồm đầu tên có ba cạnh và chuôi dài cắm vào tên. Rải rác nhiều nơi trong và ngoài thành cũng tìm thấy mũi tên có kiểu dáng khác nhau.

Một công trình lao động lớn, một kiến trúc quân sự nổi tiếng thể hiện tập trung nhiều chỉ tiêu phát triển của nước Âu Lạc là thành Cổ Loa.

Sau khi thành lập nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn Cổ Loa làm kinh đô và xây dựng ở đó một tòa thành lớn. Đấy là thành Cổ Loa, kinh thành của nước Âu Lạc đời An Dương Vương.

Cổ Loa nằm ở cùng đồng bằng giáp trung du của lưu vực sông Hồng, trên bờ bắc Hoàng Giang. Ngày nay, Hoàng Giang chỉ là một đoạn sông đã bị bồi lấp và đã được cải tạo thành một kênh thủy nông. Nhưng theo các tài liệu địa lý học lịch sử xưa kia, Hoàng Giang là một con sông lớn, nối liền sông Hồng với sông Cầu ở Quả Cảm – Thổ Hà. Trên bản đồ và thực địa, dấu vết của dòng sông cũ còn rõ nét với những đoạn gọi là sông Thiếp hay Ngũ Huyện Khê [sông chảy qua 5 huyện: Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du].

Từ Cổ Loa, theo Hoàng Giang có thể ngược lên sông Hồng, rồi theo sông Hồng, sông Đà, sông Lô có thể lên tận miền núi rừng phía Bắc và tây bắc hay theo Hồng, sông Đáy có thể xuôi xuống vùng đồng bằng và ra biển. Từ Cổ Loa, theo Hoàng Giang cũng có thể xuôi xuống sông Cầu để qua sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam lên miền núi rừng đông bắc hay theo Lục Đầu Giang xuống sông Thái Bình, sông Kinh Thày tỏa rộng khắp vùng đồng bằng ven biển.

Cổ Loa nằm giữa vùng đồng bằng, ở vị trí trung tâm của đất nước và đầu mối của các hệ thống giao thông đường thủy, dân cư đông đúc, kinh tế phát đạt. Việc dời đô về Cổ Loa, với vị trí địa lý, giao thông, kinh tế như vậy, chứng tỏ một yêu cầu phát triển mới của nước Âu Lạc. Thủ đô của nước Âu Lạc không thể ở vùng trung du như trước nữa, mà phải là một trung tâm về mọi mặt của đất nước.

Cổ Loa có tên nôm là chạ Chủ. Truyền thuyết dân gian cho biết, khi xây dựng đô thành mới, An Dương Vương đã dời dân chạ Chủ xuống vùng đất bãi cuối sông Hoàng, khai phá đất hoang lập nên những xóm làng mới. Đó là làng Quậy gồm Quậy Cả, Quậy Rào, Quây Con thuộc xã Liên Hà [Đông Anh, Hà Nội]. Thành Cổ Loa được xây dựng trên một vùng đất đã được khai phá và có xóm làng cư trú từ lâu đời.

Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, thành Cổ Loa được xây dựng đầu tiên với An Dương Vương và giữ vai trò kinh đô của nước Âu Lạc. Cũng không ai nghi ngờ rằng, sau thời An Dương Vương, thành Cổ Loa đã được nhiều chính quyền của những thời kỳ lich sử khác nhau sử dụng và tất nhiên có tu bổ, sửa sang hay xây đắp thêm.

Thành Cổ Loa là một chỉ tiêu phản ánh tập trung sự phát triển nhiều mặt của nước Âu Lạc đời An Dương Vương. Nó không những chứng tỏ tài năng lao động sáng tạo, những tiến bộ về kỹ thuật xây dựng, về kỹ thuật và nghệ thuật quân sự của người Việt cổ, mà còn biểu thị một bước phát triển mới của Nhà nước Âu Lạc, của quyền lực xã hội, của sự phân hóa xã hội.

Bài 14: NƯỚC ÂU LẠC

1. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Tần diễn ra như thế nào?

-  Cuối thế kỷ III TCN, nước Văn Lang không còn yên bình, vua quan không chăm lo việc nươc, đời sống nhân dân muôn vàn khó khăn.

- Giữa lúc đó, năm 218 TCN, Vua Tần đánh xuống phương Nam. Sau 4 năm chinh chiến, quân Tần đã kéo đến vùng Bắc Văn Lang. Cuộc kháng chiến bùng nổ.

- Trước tình hình như vậy, người Tây Âu và Lạc Việt hợp lại, cử Thục Phán chỉ huy. Người Việt trốn vào rừng, ngày ở yên, đêm ra đánh.

- Kết quả: Năm 209 TCN, Người Việt đánh tan quân Tần, giết chết Hiệu úy Đồ Thư, quân Tần rút về nước.

2. Nước Âu Lạc ra đời

-  Năm 207 TCN, Thục Phán hợp nhất đất đai Tây Âu và Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê [Cổ Loa – Đông Anh - Hà Nội ngày nay], đây là nơi đông dân, nằm ở trung tâm đất nước, gần với sông Hồng, có sông Hoàng chảy qua. Sông Hoàng là nơi nối với sông Hồng ở mạn Bắc và sông Cầu ở mạn Nam.

-  Bộ máy nhà nước thời An Dương Vương không có gì thay đổi, đừng đầu là An Dương Vương, giúp vua có Lạc hầu, Lạc tướng. Cả nước chia thành nhiều bộ, do Lạc tướng đứng đầu. Làng, chạ vẫn do Bồ chính cai quản.

=> Nhìn chung, bộ máy nhà nước thời An Dương Vương đã chặt chẽ hơn, quyền lực nhà vua cũng cao hơn.

Mũi tên đồng và nẫy nỏ Cổ Loa Lược đồ thành Cổ Loa

- Nước ta cuối thời Hùng Vương và đầu thời Âu Lạc đã có những tiến bộ đáng kể.

+  Nông nghiệp: Lưỡi cày đồng dùng phổ biến, lúa gạo, rau, củ... nhiều hơn, chăn nuôi, đánh cá, săn bắn phát triển.

+  Thủ công nghiệp: Đồ gốm, dệt vải phát triển, đặc biệt là ngành xây dựng và luyện kim. Giáo, mác, mũi tên đồng, cuốc sắt,...được sử dụng ngày càng nhiều.

+  Xã hội: Dân số tăng, phân biệt giữa các tầng lớp sâu sắc.

Lưỡi cày đồng hình trái tim được phát hiện tại Cổ Loa [Hà Nội] Mũi tên đồng Cổ Loa

* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1.Tình hình nhà nước Văn Lang như thế nào trước khi bị quân Tần đem quân xâm lược ?

Trả lời :

Vào cuối thế kỉ III TCN, đất nước Văn Lang không còn yên bình như trước. Vua không lo sửa sang võ thị, chỉ ham ăn uống, vui chơi. Lụt lội xảy ra, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Nhà nước Văn Lang suy yếu.

2. Khi quân Tần tấn công xâm lược vùng Bắc Văn Lang, những ai trực tiếp đương đầu với quân xâm lược ?

Trả lời :

Khi quân Tần tấn công xâm lược vùng Bắc Văn Lang, người Tây Âu và Lạc Việt đã cùng nhau chống lại cuộc tấn công của quân Tần.

3. Cuộc kháng chiến của nhân dân Tây Âu - Lạc Việt chống quân xâm lược Tần đã diễn ra như thế nào ?

Trả lời :

- Lợi dụng cơ hội Văn Lang suy yếu, nhà Tần tiến hành xâm lược đất nước Văn Lang của người Tây Âu và Lạc Việt. Nhân dân Tây Âu - Lạc Việt không chịu đầu hàng giặc đã đoàn kết để tự vệ, bầu người giỏi là Thục Phán làm thủ lĩnh cuộc kháng chiến. Họ cùng nhau trốn vào rừng, ban ngày trốn, ban đêm ra đánh giặc.

- Họ đã duy trì cuộc chiến đấu đó trong suốt 6 năm [ 214 TCN - 208 TCN], khiến quân Tần lâm vào tình trạng khốn đốn "tiến thoái lưỡng nan", phải rút quân. Cuộc kháng chiến chống quân Tần của nhân dân Tây Âu - Lạc Việt hoàn toàn thắng lợi.

4. Em có suy nghĩ gì về tinh thần chiến đấu của người Tây Âu - Lạc Việt ?

Trả lời :

Người Tây Âu - Lạc Việt chiến đấu rất dũng cảm, bền bỉ, mưu trí, biết dựa vào địa thế rừng núi, ngày ở yên "ngày ẩn", đêm đánh quân Tần "đêm hiện", đánh lâu dài với giặc khiến chúng gặp nhiều khó khăn, chán nản, mất hết ý chí xâm lược nên phải rút quân.

5. Vì sao cuộc kháng chiến chống quân Tần của nhân dân Tây Âu - Lạc Việt thắng lợi ?

Trả lời :

Cuộc kháng chiến chống quân Tần của nhân dân Tây Âu - Lạc Việt thắng lợi :

- Tinh thần đoàn kết, chiến đấu dũng cảm, kiên trì của nhân dân Tây Âu - Lạc Việt

- Sự lãnh đạo tài giỏi của Thục Phán với lối đánh du kích lâu dài" ngày ẩn, đêm hiện"

6. Vì sao Thục Phán đặt tên nước là Âu Lạc ?

Trả lời :

Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán đặt tên nước là Âu Lạc vì :

- Nhân dân Tây Âu - Lạc Việt là hai bộ lạc sống gần nhau, có chung trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và họ đã đoàn kết với nhau để chống lại quân Tần bảo vệ lãnh thổ.

- Đồng thời để có sự kết hợp ý nghĩa lớn tên gọi của hai bộ lạc Tây Âu - Lạc Việt nên Thục Phán đặt tên nước là ÂU LẠC.

7. Nhà nước Âu Lạc ra đời trong hoàn cảnh nào ?

Trả lời :

- Vào cuối thế kỉ III TCN, nhà nước Văn Lang suy yếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Quân Tần đem quân sang xâm lược. Thục Phán đã lãnh đạo nhân dân Tây Âu - Lạc Việt chiến đấu đánh tan quân xâm lược Tần.

- Sau khi  cuộc kháng chiến thắng lợi, năm 207 TCN, Thục Phán buộc vua Hùng nhường ngôi cho mình và hợp nhất hai vùng đất của của người Tây Âu - Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê [Vùng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội]

8. Vì sao An Dương Vương chọn Phong Khê làm đất đóng đô ?

Trả lời :

An Dương Vương chọn Phong Khê làm đất đóng đô vì đây là vùng đất có vị trí trung tâm đất nước, dân cư đông đúc, gần các con sông lớn, thuận tiện cho việc đi lại.

9. Vẽ sơ đồ nhà nước thời An Dương Vương. Em có nhận xét gì về vai trò của nhà nước thời này ?

Trả lời :

* Nhận xét : Quyền hành của nhà nước thời kì này đã cao hơn và chặt chẽ hơn trước. Vua có quyền hơn trong việc trị nước.

10. Từ khi nước Văn Lang thành lập cho đến khi nước Âu Lạc ra đời trải qua bao nhiêu thế kỉ ?

Trả lời :

Từ khi nước Văn Lang thành lập cho đến khi nước Âu Lạc ra đời trải qua hơn bốn thế kỉ [thế kỉ VII TCN đến năm 207 TCN]

11. Quan sát hình 39 [SGK trang 42], em có nhận xét gì về hình dáng của lưỡi cày đồng Cổ Loa so với trước ?

Trả lời :

- Lưỡi cày đồng Cổ Loa được gọi với nhiều tên khác nhau : Lưỡi cày hình trái tim, hình bầu dục, hình lá trầu. Lưỡi cày có độ dài 24,8 cm, rộng 18,9 cm, có họng để tra cán bằng gỗ [Hoặc bằng tre]. Lưỡi cày đồng Cổ Loa không chỉ dùng để cày mà còn có thể sử dụng như lưỡi cuốc hoặc xẻng

12. Sự xuất hiện của lưỡi cày đồng Cổ Loa nói lên điều gì ?

Trả lời :

Sự xuất hiện của lưỡi cày đồng Cổ Loa là một biểu hiện tiến bộ lớn trong kĩ thuật chế tác công cụ sản xuất nông nghiệp của cư dân Âu Lạc, góp phần đưa năng suất lao động tăng lên, diện tích nông nghiệp được mở rộng.

13. Em có nhận xét gì về hình dáng của mũi tên đồng Cổ Loa hình 40 [SGK trang 42], so với mũi giáo đồng Đông Sơn ?

Trả lời :

Nhìn vào ảnh, chúng ta thấy mũi tên đồng Cổ Loa có kiểu dáng rất độc đáo. Phần lớn các mũi tên dài từ 6-11cm, có hai hay ba ngạnh, nhọn, sắc như hình múi khế, lại có chuôi để cắm vào thân tên bằng tre. Trong số các tên đồng Cổ Loa, có những chiếc ở đầu mũi có lỗ thủng, có lẽ là để buộc thêm mồi lửa làm thành thứ "tên lửa", "hỏa tiễn " để đánh giặc.

14. Em hãy cho biết nước ta thời Âu Lạc có gì thay đổi ?

Trả lời :

- Trong nông nghiệp, lưỡi cày đồng được cải tiến và được dùng phổ biến hơn. Lúa gạo, khoai, đậu, rau củ...ngày một nhiều hơn. Chăn nuôi, đánh cá, săn bắn đều phát triển.

- Các nghề thủ công như làm đồ gốm, dệt, làm đồ trang sức, đóng thuyền....đều tiến bộ. Ngành xây dựng và luyện kim đặc biệt phát triển. Giáo, mác, mũi tên đồng, rìu đồng, cuốc sắt, rìu sắt được sản xuất ngày càng nhiều.

15. Theo em, tại sao nước ta cuối thời Hùng Vương và và đầu thời Âu Lạc lại có sự tiến bộ đáng kể ?

Trả lời :

Đất nước cuối thời Hùng Vương và đầu thời Âu Lạc có những tiến bộ đáng kể là do :

- Nghề luyện kim phát triển

- Tinh thần vươn lên, chịu khó, cần cù của nhân dân trong lao động sản xuất và ý thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

16. Lập bảng thống kê so sánh sự tiến bộ về kinh tế thời Âu Lạc và thời Văn Lang ?

Trả lời :

Nội dung so sánh

Nước Văn Lang

Nước Âu Lạc

Công cụ sản xuất nông nghiệp

Sử dụng lưỡi cày đồng

Lưỡi cày đồng được cải tiến và dùng phổ biến

Sản xuất nông nghiệp

Lúa, gạo, khoai, đậu, rau, củ

Lúa, gạo, khoai, đậu, rau, củ ngày một nhiều hơn

Các nghề thủ công

Nghề gốm, dệt, làm đồ trang sức, đóng thuyền, luyện kim

Nghề gốm, dệt, làm đồ trang sức, đóng thuyền đều tiến bộ. Ngành xây dựng và luyện kim phát triển hơn

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề