Không được gọi là trạng lường ông là ai

Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường bởi rất giỏi đo lường, tính toán. Tương truyền, thuở nhỏ có một lần ông cùng chúng bạn ngồi chơi dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm thế nào để biết chiều cao của cây. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh nói không cần trèo, đứng dưới đất đo bóng cây cũng tính ra.

"Cậu lấy chiếc gậy cầm ở tay đo xem dài ngắn bao nhiêu rồi dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đoạn, cậu đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính đã tìm được chiều cao của cây này. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới, rồi trèo tít lên ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả đúng như Vinh đã tính", sách Những Trạng nguyên đặc biệt trong lịch sử Việt Nam viết.

Cách tính chiều cao này của Lương Thế Vinh ở thế kỷ 15 chính là phép đồng dạng tam giác được áp dụng ngày nay.

Vị quan nước Đại Việt Lương Thế Vinh cũng từng làm sứ nhà Thanh là Chu Hy phải thán phục về tài năng tính toán. Hy yêu cầu quan Trạng cân trọng lượng của một con voi rất to. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên.

Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục nhưng tiếp tục đố Lương Thế Vinh đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Vị quan nhà Lê đã trả lời rằng chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra kết quả.

Sứ nhà Thanh khi đó đã phải thốt lên: "Nước Nam quả có lắm người tài".

Giai thoại về nhân vật lịch sử có thật, nhà toán học lỗi lạc và thông minh dưới thời vua Lê Thánh Tông - Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Cùng MathX tìm hiểu bằng trí thông minh của mình, ông đã làm gì khiến cả đoàn sứ bộ phải ngả mũ thán phục. 

Một lần sứ nhà Thanh là Chu Hy sang nước ta, vua Thánh Tông sai Lương Thế Vinh ra tiếp. Hy nghe đồn Lương Thế Vinh không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông cả toán học nên mới hỏi:

- Có phải ông làm sách Đại thành toán pháp, định thước đo ruộng đất, chế ra bàn tính của nước Nam đó không?

Lương Thế Vinh đáp:

- Dạ, đúng thế!

Nhân có con voi rất to đang kéo gỗ trên sông, Chu Hy bảo:

- Trạng thử cân xem con voi kia nặng bao nhiêu!

- Xin vâng!

Dứt lời, Vinh xăm xăm cầm cân đi cân voi.

- Tôi xem chiếc cân của ông hơi nhỏ so với con voi đấy! - Hy cười nói.

- Thì chia nhỏ voi ra! Vinh thản nhiên trả lời!

- Ông định mổ thịt voi à? Cho tôi xin một miếng gan nhé!

Lương Thế Vinh tỉnh khô không đáp. Đến bến sông, trạng chỉ chiếc thuyền bỏ không, sai lính dắt voi xuống. Thuyền đang nổi, do voi nặng nên đầm sâu xuống. Lương Thế Vinh cho lính lội xuống đánh dấu mép nước bên thuyền rồi dắt voi lên. Kế đó trạng ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, thuyền lại đầm xuống dần cho tới đúng dấu cũ thì ngưng đổ đá.

Thế rồi trạng bắc cân lên cân đá. Trạng cho bảo sứ nhà Thanh:

- Ông ra mà xem cân voi!

Sứ Tàu trông thấy cả sợ, nhưng vẫn tỏ ra bình tĩnh coi thường. Khi xong việc, Hy nói:

- Ông thật là giỏi! Tiếng đồn quả không ngoa! Ông đã cân được voi to, vậy ông có thể đo được tờ giấy này dày bao nhiêu không?

Sứ nói rồi xé một tờ giấy bản rất mỏng từ một cuốn sách dày đưa cho Lương Thế Vinh, Hy lại đưa luôn một chiếc thước.

Giấy thì mỏng mà li chia ở thước lại quá thô, Vinh nghĩ giây lát rồi nói:

- Ngài cho tôi mượn cuốn sách!

- Sứ đưa ngay sách cho Lương Thế Vinh với vẻ không tin tưởng lắm.

Lương Thế Vinh lấy thước đo cuốn sách, tính nhẩm một lát rồi nói bề dày tờ giấy.

Kết quả rất khớp với con số đã viết sẵn ở nhà. Nhưng sứ chưa tin tài Lương Thế Vinh, cho là ông đoán mò. Khi nghe Vinh nói việc đo này rất dễ, chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả thì sứ ngửa mặt lên trời than:

"Danh đồn quả không sai. Nước Nam quả có lắm người tài!"

Lương Thế Vinh quả là kỳ tài! Ông nghĩ ra cách cân đo tài tình ngay cả trong lúc bất ngờ, cần ứng phó nhanh chóng. Gặp vật to thì ông chia nhỏ, gặp vật nhỏ thì ông gộp lại. Phải chăng ý tưởng của Lương Thế Vinh chính là mầm mống của phép tính vi phân [chia nhỏ] và tích phân [gộp lại] mà ngày nay là những công cụ không thể thiếu được của toán học hiện đại.

------------------------------

Đôi điều về Lương Thế Vinh.

Lương Thế Vinh, còn gọi là Trạng Lường là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ Việt Nam thời Lê Sơ. Ông đỗ Trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm.

Về toán học, Lương Thế Vinh đã để lại Đại thành Toán pháp và Khải minh Toán học. Quyển Đại thành toán pháp của ông được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam.

Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ. Các chuyện truyền miệng dân gian còn cho biết tài năng của ông được thể hiện từ khi nhỏ tuổi. Có giai thoại kể rằng một lần trong lúc đang chơi đùa với các bạn, có một quả bưởi lăn xuống một hố hẹp và sâu, tưởng như không lấy lên được. Lương Thế Vinh đã nghĩ ra cách lấy bưởi lên bằng việc đổ nước vào hố và lợi dụng việc bưởi nổi trên nước để lấy lại quả bưởi.

Ngoài công việc hàn lâm trong triều, Lương Thế Vinh còn là người thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Triều Minh thường khen ngợi những văn thư ngoại giao này. Lương Thế Vinh cũng sáng tác văn Nôm. Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc ngữ văn. Không chỉ vậy, ông còn nghiên cứu về âm nhạc dân gian, như hát chèo. Ông được vua Lê Thánh Tông giao cho việc chế định ra các lễ nhạc của triều đình.

Nguồn: ST

Mathchallenge.vn

Lương Thế Vinh [chữ Hán: 梁世榮,; 1 tháng 8 năm 1441 - 2 tháng 10 năm 1497, tên hiệu là Thụy Hiên] là một nhà toán học, Phật học, và chính trị gia thời Lê sơ. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông được biết đến nhiều nhất bởi các tác phẩm do ông biên soạn ở các lĩnh vực toán học, văn hóa. Ông cũng còn được biết đến là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495.

Chân dung Lương Thế Vinh

 

Đền thờ Trạng nguyên Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu [tức ngày 17 tháng 8 năm 1441][1] tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam [nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định], tên tự là Cảnh Nghị. Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim. Nhờ khả năng về toán học và đo lường mà sau này ông được nhân dân gọi tên là Trạng Lường khi đỗ trạng nguyên.

Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh [trạng nguyên] khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông.[2]

Vua Lê Thánh Tông ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu:

Trạng nguyên Lương Thế Vinh Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh Thám hoa Quách Đình Bảo Thiên hạ cộng tri danh

Các năm sau đó, ông làm quan với các chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm. Trong quá trình làm quan, ông được nhận định là có tính cách bình dị, mến dân, trung thực và khả năng châm biếm khôi hài trong việc răn dạy từ vua đến quan.[cần dẫn nguồn] Trong thời gian này, ông tiến hành biên soạn tác phẩm Đại thành toán pháp, một tài liệu toán học sau đó được chính thức đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ.

Ngoài công việc hàn lâm trong triều, Lương Thế Vinh còn được vua giao việc soạn thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Triều Minh thường khen ngợi những văn thư ngoại giao này. Lương Thế Vinh cũng có những nghiên cứu về âm nhạc dân gian, như hát chèo. Ông được vua Lê Thánh Tông giao cho cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận chế định ra các lễ nhạc của triều đình.

Ông cũng được biết đến với nhiều tác phẩm thơ chữ Nôm. Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc ngữ văn, còn gọi là Phật kinh Thập giới. Đây là áng văn Nôm cổ gồm đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn: Thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn-địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Mỗi đoạn có một bài tán và kết thúc bằng bài kệ 8 câu. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bị các bạn đồng nghiệp chê và ông không được ghi tên trong văn miếu Khổng Tử.

Tuy nhiên, thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng Lương Thế Vinh không viết bài này vì bài kệ của đoạn về Thiền tăng có giọng đùa bỡn, không phù hợp với một người có nhiều cảm tình với Phật giáo như Lương Thế Vinh.[cần dẫn nguồn] Theo học giả Lê Mạnh Thát, Thập giới cô hồn văn là một tác phẩm của vua Lê Thánh Tông [1442 - 1497].[cần dẫn nguồn]

Ông mất ngày 26 tháng 8 năm Bính Thìn [tức ngày 2 tháng 10 năm 1496] tại quê nhà, thọ 55 tuổi.[1]

Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc và viết một bài thơ khóc Trạng:

Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua Gióng khách chương đài kiếp tại nhà Cẩm tú mấy hàng về động ngọc Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa Khí thiên đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm Trạng nước Nam ta

Về sự sáng tạo của Lương Thế Vinh hồi nhỏ, có giai thoại kể rằng một lần trong lúc đang chơi đùa với các bạn, có một quả bưởi lăn xuống một hố hẹp và sâu, tưởng như không lấy lên được. Lương Thế Vinh đã nghĩ ra cách lấy bưởi lên bằng việc đổ nước vào hố và lợi dụng việc bưởi nổi trên nước để lấy lại quả bưởi.

Về phong cách học tập của Lương Thế Vinh, có giai thoại so sánh ông với Quách Đình Bảo cũng là người nổi tiếng về thông minh, học giỏi ở vùng Sơn Nam [Ngày nay thuộc Thái Bình và Nam Định]. Khi sắp đến kỳ thi của triều đình, Quách Đình Bảo thì ngày đêm dùi mài kinh sử quên ngủ, quên ăn; còn Vinh thì thư giãn, thả diều cùng bạn bè. Kì thi đó Quách Đình Bảo đỗ đầu nhưng đến khoa thi Đình [kì thi Quốc gia] Quý Mùi năm Quang Thuận thứ tư, đời vua Lê Thánh Tông [1463] Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên [đỗ đầu], Quách Đình Bảo chỉ đỗ thám hoa [đỗ thứ 3].

Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương, âm nhạc mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: "Nước Nam quả có lắm người tài !". Lương Thế Vinh đáp lại rằng người nghĩ ra cách cân voi thật sự là Tào Xung, con của Tào Tháo. Điều này càng khiến cho sứ giả hổ thẹn vì chưa thuộc sử nước nhà.

Toán học:

  • Đại thành Toán pháp
  • Khải minh Toán học

Lịch sử hát chèo:

  • Hý phường phả lục

Phật học:

  • Thiền môn Khoa giáo [còn gọi là Thích điển Giáo khoa]
  • Bài tựa sách Nam Tông Tự Pháp Đồ [sách lịch sử đạo Phật Việt Nam do thiền sư Thường Chiếu, tịch năm 1203, viết ra]

Hiện nay tại Việt Nam, tên ông còn được đặt cho nhiều tuyến đường lớn ở Hà Nội, Quảng Trị, Đồng Hới, Nha Trang, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh,... Tên của ông còn được đặt cho ngôi trường cùng tên ở Hà Nội và các trường học ở nhiều nơi khác tại quốc gia này.

  • Đại thành Toán pháp
  • Thân Nhân Trung
  • Quách Đình Bảo

  1. ^ a b Lương Thế Vinh [1441 - 1496] Lưu trữ 2010-03-09 tại Wayback Machine, trích từ Danh nhân Hà Nội, Lưu Minh Trị, Nhà xuất bản Hà Nội, tr336-341. Tuy nhiên một số nguồn khác cho rằng năm sinh là 1442 và năm mất là 1510.
  2. ^ Bia số 3: Văn bia đề danh Tiến sĩ Khoa Quý Mùi Niên hiệu Quang Thuận thứ 4 [1463]

  • Volkov, Alexei [2002], “On the Origins of the Toan phap dai thanh”, trong Samplonius, Yvonne Dold; Dauben, Josephn W. [biên tập], From China to Paris: 2000 Years Transmission of Mathematical Ideas, Franz Steiner Verlag, tr. 369–410, ISBN 978-3-515-08223-5
  • Volkov, Alexei [2009], “Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam”, trong Robson, Eleanor; Stedall, Jacqueline [biên tập], The Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford: Oxford University Press, tr. 153–76, ISBN 978-0-19-921312-2
  • Volkov, Alexei [2016], “Mathematics in Vietnam”, trong Selin, Helaine [biên tập], Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [ấn bản 3], Berlin: Springer-Verlag, tr. 2818–2833, ISBN 978-94-007-7748-4
  • Toán học Việt Nam thời kỳ Trung đại báo Tia sáng ngày 27/04/2020, bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [Helaine Selin Editor], Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833.
  • Sách toán Việt Nam hiện tồn báo Tia sáng ngày 11/05/2020, phần tiếp theo bản dịch Mathematics in Vietnam của A. Volkov trong Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures [Helaine Selin Editor], Third Edition, Springer, 2016, pp. 2818-2833.
  • Toán học trong thi cử ngày xưa báo Đà Nẵng ngày 09/07/2017.
  • Lương Thế Vinh tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Giai thoại Lương Thế Vinh ở Vietscience.
  • Tài ba Trạng Lường Lưu trữ 2005-12-26 tại Wayback Machine ở báo Nhân dân.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lương_Thế_Vinh&oldid=68428920”

Video liên quan

Chủ Đề