Dụng thuốc qua các đường không xâm lần
Để được hấp thu, một loại thuốc được dùng qua đường uống phải còn tồn tại qua các môi trường có pH thấp và các dịch bài tiết ở đường tiêu hóa bao gồm cả các enzym có khả năng phân huỷ. Các thuốc có bản chất peptid (ví dụ insulin) đặc biệt dễ bị phân hủy và không dùng được qua đường uống. Hấp thu các thuốc dùng qua đường uống thông qua quá vận chuyển qua màng tế bào biểu mô trong đường tiêu hóa. Sự hấp thụ bị ảnh hưởng bởi Show
Niêm mạc miệng có lớp biểu mô mỏng và hệ tuần hoàn phong phú, có lợi cho sự hấp thu; tuy nhiên, thời gian tiếp xúc với thuốc thường quá ngắn nên chỉ hấp thu được lượng thuốc nhỏ. Một loại thuốc đặt giữa nướu răng và má (dưới má) hoặc dưới lưỡi (đặt dưới lưỡi) được giữ lại lâu hơn nên sự hấp thu thuốc được tăng cường.
Dạ dày có bề mặt biểu mô tương đối lớn, nhưng lớp niêm mạc dày và thời gian vận chuyển qua dạ dày ngắn nên sự hấp thu bị hạn chế. Vì hầu hết sự hấp thu xảy ra ở ruột non nên làm rỗng dạ dày thường là bước để hạn chế tốc độ hấp thu. Thức ăn, đặc biệt là thức ăn giàu chất béo, làm chậm sự rỗng của dạ dày (và tốc độ hấp thu thuốc), điều này giải thích tại sao uống một số thuốc khi dạ dày rỗng có thể tăng tốc độ hấp thụ. Các thuốc ảnh hưởng đến việc làm rỗng dạ dày (ví dụ thuốc chống ký sinh trùng) ảnh hưởng đến tốc độ hấp thu của các thuốc khác. Thức ăn có thể làm tăng sự hấp thu các thuốc hòa tan kém (ví dụ: griseofulvin), giảm hấp thu thuốc bị giáng hóa tại dạ dày (ví dụ penicillin G), hoặc có ít hoặc không có tác dụng.
Ruột non có diện tích bề mặt lớn nhất để hấp thu thuốc trong đường tiêu hoá, và màng của nó có khả năng thẩm thấu hơn màng dạ dày. Vì những lý do này, hầu hết các loại thuốc được hấp thu chủ yếu ở ruột non, và ngay cả các thuốc có bản chất axit cần tồn tại dưới dạng không ion hoá để đi qua các màng, được hấp thu nhanh hơn trong ruột so với trong dạ dày. Độ pH trong lòng ống ở tá tràng là 4 đến 5 nhưng dần dần trở nên kiềm hơn, tiến gần đến 8 ở hồi tràng. Hệ vi khuẩn ở đường tiêu hóa có thể làm giảm hấp thu. Giảm lưu lượng máu (ví dụ như sốc) có thể làm giảm gradient nồng độ qua niêm mạc ruột và giảm sự hấp thụ từ quá trình khuếch tán thụ động.
Thời gian vận chuyển thuốc qua đường ruột có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc, đặc biệt đối với các thuốc được hấp thu bằng vận chuyển tích cực (ví dụ vitamin B), hòa tan chậm (ví dụ như griseofulvin) hoặc phân cực (nghĩa là có độ hòa tan trong lipid thấp, ví dụ như một số thuốc kháng sinh).
Để tối đa hóa sự tuân thủ điều trị, bác sỹ lâm sàng nên kê đơn hỗn dịch uống và thuốc viên nhai cho trẻ <8>
Một trong những lợi điểm của cho thuốc qua đường mũi là nhanh, dễ thực hiện, không xâm lấn. Thay vì tiêm, nhân viên y tế chỉ việc pha thuốc và gắn vào đầu phun sau đó xịt trực tiếp vào mũi. Thuốc sẽ ngấm vào máu với tốc độ tương đương như tiêm qua đường tĩnh mạch và ít nguy cơ nhiễm trùng hơn. Trong những tình huống cấp cứu như người bệnh co giật, kích động, tĩnh mạch bị xẹp hoặc trẻ nhỏ sợ kim tiêm thì việc cho thuốc bằng đường mũi được ưu tiên. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý thêm việc cho thuốc bằng cách này cũng hạn chế trong trường hợp có tổn thương vùng mũi, mạch máu bị giới hạn do sử dụng nhiều thuốc phiện hoặc người bệnh dễ bị kích thích với thuốc qua đường mũi. BS HUỲNH KHIÊM HUY (Theo Loyolamedicine)
Hấp thu thuốc qua đường tiêu hóa là sự xâm nhập của thuốc vào vòng tuần hoàn chung của cơ thể. Ngoài ra, còn có thể đưa thuốc thông qua đường tiêm, đường hô hấp và qua da. Con đường đưa thuốc vào cơ thể có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu. Hấp thụ là sự vận chuyển thuốc từ nơi dùng thuốc (qua đường uống hay qua dạng tiêm) vào máu rồi đi khắp cơ thể, tới nơi cần điều trị. Vì vậy sự hấp thu sẽ phụ thuộc vào:
Con đường đưa thuốc vào cơ thể có ảnh hưởng lớn đến sự hấp thu Ưu điểm: Đơn giản. Nhược điểm: Thuốc khi vào cơ thể, đi qua đường tiêu hóa bị các enzym tiêu hóa phá huỷ hoặc thuốc tạo phức với thức ăn làm chậm đi khả năng hấp thu. 1 số loại thuốc khi sử dụng làm kích thích, ảnh hưởng tới dạ dày như niêm mạc tiêu hóa, gây viêm loét dạ dày,... 2.2 Hấp thu qua niêm mạc miệng
Thuốc hấp thu vào thẳng vòng tuần hoàn nên không bị dịch vị phá huỷ, không bị chuyển hóa qua gan lần thứ nhất. Thuốc uống sẽ xuống dạ dày và qua ruột với các đặc điểm sau: Ở dạ dày: Có độ pH = 1- 3 nên chỉ hấp thu các acid yếu, ít bị ion hóa như aspirin, phenylbutazon, barbiturat. Thuốc uống ít hấp thu vì niêm mạc ít mạch máu, chứa nhiều cholesterol, thời gian thuốc ở dạ dày không lâu. Khi đói hấp thu nhanh hơn, nhưng dễ bị kích thích, gây ảnh hưởng tới dạ dày. Ở ruột non: Ruột non là nơi hấp thu thuốc chủ yếu vì ở đây có diện tích hấp thu rất rộng (> 40m2), được tưới máu nhiều, pH tăng dần tới base (pH từ 6 đến 8). Ở ruột non, thuốc ít bị ion hóa nhưng nếu liều lượng ít hoặc thuốc không tan trong lipid thì ít được hấp thu. Các loại thuốc mang amin bậc 4 bị ion hóa mạnh nên khó hấp thu. Thuốc uống sẽ xuống dạ dày và qua ruột Thuốc đặt tại trực tràng: Thường dùng trong trường hợp bị nôn, bệnh nhân hôn mê, trẻ nhỏ. Thuốc đặt ở hậu môn sẽ không bị enzyme tiêu hóa phá hủy, 50% thuốc đặt tại trực tràng sẽ qua gan, chuyển hóa ban đầu. Nhược điểm: Thuốc không được hấp thụ hoàn toàn và có thể khiến kích ứng niêm mạc hậu môn. Qua đường tiêm tĩnh mạch: Thuốc hấp thu vào cơ thể nhanh, hoàn toàn, có thể điều chỉnh liều được nhanh. Lựa chọn tiêm đường tĩnh mạch khi truyền dung dịch nước hoặc các chất không thể tiêm. Tiêm dưới da: Hấp thụ chậm hơn do dưới da có nhiều sợi dây thần kinh nên cảm giác sẽ đau hơn, lại ít mạch máu. Tiêm bắp: Là kỹ thuật có thể khắc phục được nhược điểm của tiêm dưới da. Tuy nhiên một số thuốc có thể gây hoại tử cơ như ouabain, calci clorid, vì vậy sẽ không được tiêm bắp. Thấm qua niêm mạc: Các loại thuốc bôi, nhỏ giọt vào niêm mạc mũi, họng, âm đạo, bàng quang để điều trị tại chỗ. Sử dụng trực tiếp nên thuốc thấm nhanh, trực tiếp vào máu nên không bị enzym phá hủy, có tác dụng toàn thân. Các loại thuốc bôi, nhỏ giọt vào niêm mạc mũi, họng, âm đạo, bàng quang để điều trị tại chỗ Qua phổi: Các chất khí và các thuốc bay hơi có thể được hấp thu qua tế bào biểu mô phế nang, niêm mạc đường hô hấp. Phổi có diện tích rộng (80 - 100m2) nên hấp thu nhanh. Đây là đường hấp thu và thải chính của thuốc mê hơi. Sự hấp thụ ít hay nhiều thuốc phụ thuộc vào nồng độ thuốc mê trong không khí khi bệnh nhân thở vào, do sự thông khí hô hấp và độ hòa tan của thuốc mê trong máu. Một số thuốc dùng dưới dạng phun sương để điều trị tại chỗ (bị hen phế quản). Tiêm tuỷ sống: Thông thường được tiêm vào khoang dưới nhện hoặc ngoài màng cứng để gây tê vùng thấp như chi dưới, khung chậu bằng dung dịch có tỷ trọng cao (hyperbaric solution) hơn dịch não tuỷ. Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn XEM THÊM:
Việc chọn đường dùng thuốc tuỳ thuộc vào tính chất của thuốc, tác dụng mong muốn, tình trạng bệnh hiện tại, thể chất của người bệnh: cân nặng, tuổi và cả trạng thái tinh thần và tri giác của người bệnh. Những yêu cầu cần thiết khi dùng thuốcCó kiến thức về thuốc
Tác phong làm việc của người điều dưỡngPhải có tinh thần trách nhiệm Phải sáng suốt khi nhận y lệnh. Không thực hiện y lệnh qua miệng hoặc qua điện thoại. Nếu nghi ngờ phải hỏi lại, không được tự ý thay đổi y lệnh. Không được pha trộn các loại thuốc với nhau nếu không có y lệnh. Phải thành thật khai báo nếu có sai phạm. Tác phong làm việc phải khoa học, chính xác
Nhận định về người bệnh
Hiểu rõ y lệnh về thuốc, nếu nghi ngờ phải hỏi lại
Áp dụng 3 kiểm tra 5 đối chiếu và 6 điều đúng trong suốt quá trình dùng thuốc3 Kiểm tra: Tên người bệnh Tên thuốc Liều thuốc 5 đối chiếu: Số giường, số phòng Nhãn thuốc Chất lượng thuốc Đường tiêm thuốc Thời hạn dùng thuốc Điều đúng: Đúng người bệnh: một trong những phần quan trọng trong việc dùng thuốc là phải đảm bảo rằng thuốc được được đưa vào đúng người bệnh. Có nhiều người bệnh giống nhau về tên, họ, tuổi vì vậy để tránh nhầm lần là khi có 2 người bệnh giống nhau ta nên sắp xếp giường khác phòng nhau hoặc nếu không có thể cho họ nằm ở 2 vị trí cách xa nhau, và điều quan trọng nhất là ta phải hỏi tên họ, số giường, số phòng, trước khi dùng thuốc. Đúng thuốc: khi dùng thuốc cho người bệnh, người điều dưỡng phải đọc nhãn thuốc 3 lần vào 3 thời điểm sau: Khi lấy thuốc ra khỏi tủ hoặc nơi cất giữ. Khi lấy thuốc ra khỏi vật chứa: lọ, ống, chai thuốc. Trước khi trả chai, lọ thuốc về chỗ cũ hoặc bỏ vào thùng rác. Đúng liều: sự tính toán liều cần phải được chính xác do vậy để tránh nhầm lẫn người điều dưỡng cần phải lấy thuốc trong môi trường hoàn toàn yên tĩnh, phải chú tâm cao độ, không làm việc gì khác, đôi khi cũng cần kiểm tra lại sự tính toán của mình bằng cách so với các điều dưỡng khác. Sau khi tính toán liều thuốc chính xác, người điều dưỡng phải biết dùng dụng cụ đo lường chính xác từng ml hay từng giọt một, việc bẻ đôi một viên thuốc nên dùng dụng cụ cắt thuốc cho cân xứng. Với số lượng thuốc quá nhỏ vài giọt ta có thể cho trực tiếp vào miệng người bệnh hoặc cho một ít nước vào ly trước khi cho thuốc vào để tránh thuốc dính vào ly. Đúng đường dùng thuốc: khi sử dụng thuốc ngưởi điều dưỡng cần phải kiểm tra chắc chắn thuốc dùng cho đường nào: uống, ngoài da, niêm mạc hay tiêm vì nếu nhầm lẫn thì sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng. Ví dụ: thuốc dùng ngoài da lại đem uống sẽ gây ngộ độc những chất không thể hấp thu qua niêm mạc tiêu hoá hoặc thuốc dùng tiêm bắp lại dùng tiêm tĩnh mạch có thể gây thuyên tắc mạch vì thuốc tiêm bắp có thể có tính chất không tan trong máu. Đúng thời gian: điều dưỡng phải biết vì sao một số thuốc được cho y lệnh vào một số giờ nhất định trong ngày, ví dụ: thuốc lợi tiểu không nên dùng sau 15 giờ vì người bệnh có thể đi tiểu ban đêm gây mất giấc ngủ, hoặc một số thuốc như kháng sinh cần duy trì nồng độ thuốc đều trong máu do phải cách mỗi 8 tiếng hoặc 12 tiếng dùng thuốc một lần. Nếu như ta không thực hiện đúng thì hiệu quả của việc điều trị sẽ giảm và đôi khi sẽ mất tác dụng và có thể gây nặng thêm cho người bệnh. Theo dõi tác dụng của thuốcBiết kết quả điều trị sau khi dùng thuốc cho người bệnh để góp ý với bác sĩ điều trị về liều lượng hoặc chọn thuốc phù hợp với bệnh trạng của người bệnh. Phát hiện sớm và phòng ngừa tai biến về thuốc cho người bệnh. Một số trường hợp đặc biệt cần theo dõi: do khác nhau về tuổi, cân nặng, diện tích bề mặt của da, khả năng hấp thu, chuyển hoá và bài tiết thuốc. Liều của trẻ em thấp hơn liều của người lớn và cũng khác so với người già, vì vậy tuỳ theo từng đối tượng mà người điều dưỡng phải biết sự thay đổi để chăm sóc. Đối với trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ: thuốc thường không được đóng thành gói nhỏ theo liều lượng của trẻ do vậy việc tính liều lượng thuốc phải tính toán rất cẩn thận. Tất cả các trẻ nhỏ đều cần phải có sự chuẩn bị tâm lý trước khi cho dùng thuốc đặc biệt là dùng thuốc qua đường tiêm vì sẽ làm bé đau và không hợp tác, do vậy tuỳ theo lứa tuổi mà người điều dưỡng có cách giải thích riêng, nhưng đôi khi cũng cần phải dùng áp lực thì lúc này nên thực hiện kỹ thuật nhanh, chính xác để giảm bớt nguy cơ tai biến cho trẻ. Cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ thường dễ gần và dễ cho trẻ uống thuốc, nên đôi khi có thể người điều dưỡng đưa thuốc để họ cho trẻ uống dưới sự giám sát của điều dưỡng. Đối với người già: cũng cần những chú ý đặc biệt trong quá trình dùng thuốc vì ở tuổi già quá trình hấp thu chất giảm, sự đào thải chậm, các yếu tố về hành vi và kinh tế sẽ ảnh hưởng đến việc dùng thuốc của họ. Ngoài ra, do có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống một số người bệnh thường ỷ lại hay tự ý thay đổi liều lượng, hoặc uống không đủ liều, ngưng thuốc giữa chừng, hoặc thậm chí đôi khi do không tin tưởng vào thầy thuốc hoặc do tốn kém một số người bệnh còn dùng các loại thuốc dân gian hoặc nghe theo kinh nghiệm của người khác để dùng thuốc và đã gặp không ít những tai biến. Do vậy, người điều dưỡng phải biết nhận định đúng tình trạng người bệnh nhất là về mặt tâm sinh lý để có thể hướng dẫn, phòng ngừa những tình huống xấu xảy ra Ghi chép hồ sơ
Các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc
Các phương pháp dùng thuốcDựa vào tình trạng của người bệnh, dựa vào tác dụng dược tính của thuốc mà ta có các phương pháp dùng thuốc sau: Uống
Thuốc uống qua sonde: Cần phải cán nhuyễn và pha loãng thuốc trước khi bơm qua sonde. Kiểm tra vị trí sonde.
Thuốc ngấm qua niêm mạc
Thuốc tác dụng ngoài daRửa sạch vùng da trước khi bôi thuốc. Nên massage vùng bôi thuốc giúp thuốc hấp thu nhanh hơn. Tiêm thuốc
Nôn ói nhiều. Người bệnh chuẩn bị mổ. Tâm thần, không hợp tác. Các tai biến khi tiêm thuốc Do vô khuẩn không tốt Abces nóng. Viêm tĩnh mạch. Nhiễm trùng huyết. Do quá trình tiêmNhầm lẫn thuốc: không áp dụng 3 tra 5 đối
Do tác dụng của thuốc Shock do cơ thể phản ứng với thuốc. Tiêm sai đường tiêm gây hoại tử mô (CaCl2). Viêm tĩnh mạch. Tiêm bắp (INTRA MUSCULAR) IMCỡ kim: 21-23 G dài 2,5-4 cm. Góc độ tiêm: 90 độ so với mặt da. Vị trí tiêm: Tiêm bắp nông: Cơ delta cách ụ vai 5 cm. Lượng thuốc không quá 1 ml. Không dùng tiêm thuốc dầu. Không dùng cho cơ delta chưa phát triển (trẻ < 2 tuổi, liệt). Hình 64.6. Vị trí tiêm bắp nông Tiêm bắp sâu: Đùi: 1/3 giữa mặt ngoài đùi: lượng thuốc không quá 5 ml (cơ rộng ngoài đùi), không quá 2 ml (cơ thẳng đùi). Mông: 1/3 trên ngoài đường nối giữa gai chậu trước trên và xương cùng hoặc đặt bàn tay lên lồi cầu xương đùi, hướng các ngón lên phía trên, ngón trỏ đặt ở gai chậu trước trên, ngón giữa dang rộng dọc theo cánh chậu, vị trí tiêm là trung tâm hình tam giác được tạo ra do ngón giữa và ngón trỏ. Không dùng cho cơ mông chưa phát triển (trẻ < 2 tuổi, liệt). Lượng thuốc tiêm không quá 3 ml. Hình 64.7. Vị trí tiêm bắp đùi và mông Bảng 64.1. Dung lượng thuốc tương ứng với vị trí tiêm bắp
Tiêm dưới da (SUBCUTANEOUS) S/CTiêm vào mô liên kết lỏng lẽo dưới da. Cỡ kim: 25 G; dài: 1-1,6 cm. Góc độ tiêm: trung bình 45 độ so với mặt da. 80 kg: 90 độ <30> Vị trí tiêm: tiêm vào mô liên kết lỏng lẽo dưới da. Cơ delta: đầu dưới cơ delta. Hai bên bả vai. Hai bên rốn cách rốn 5 cm. 1/3 giữa mặt ngoài, trước cuả đùi. Tiêm tĩnh mạch (Intravenous) IVCho thuốc trực tiếp vào mạch máu.
To, rõ, ít di động. Mềm mại, không gần khớp. Tiêm trong da T (INTRADERMAL) I/DTiêm vào lớp dưới thượng bì có tác dụng chủng ngừa hoặc thử phản ứng thuốc.
1/3 trên mặt trong cẳng tay (thông dụng nhất). Hai bên cơ ngực lớn. Hai bên bả vai. Kỹ thuật làm test lẩy da:Để thử phản ứng thuốc (theo thông tư số 08/1999-TT-BYT, ngày 04 tháng 5 năm 1999) Hình 64.9. Các vị trí tiêm tĩnh mạch Hình 64.10. Các góc độ tiêm
Nội dung hộp thuốc cấp cứu chống sốc phản vệ(Theo thông tư số 08/1999-TT- BYT, ngày 04 tháng 5 năm 1999) Các khoản cần thiết phải có trong hộp thuốc cấp cứu sốc phản vệ (tổng cộng: 7 khoản). Adrenalin 1 mg – 1 ml: 2 ống Nước cất 10 ml: 2 ống Bơm kim tiêm vô khuẩn (dùng một lần): 10 ml: 2 cái; 1 ml: 2 cái. Hydrocortison hemisuccinate 100 mg hoặc methyprednisolon (solumedrol 40 mg hoặc depersolon 30 mg): 2 ống. Phương tiện khử trùng P (bông, băng, gạc, cồn). Dây garrot. Phác đồ cấp cứu sốc phản vệ. Các dụng cụ khác:
Phác đồ cấp cứu sốc phản vệ(kèm theo Thông tư số 08/1999-TT-BYT, ngày 04 tháng 5 năm 1999) Triệu chứng
Xử tríXử trí ngay tại chỗ
Xử trí tiếp theo: tùy theo điều kiện trang thiết bị y tế và trình độ chuyên môn kỹ thuật của từng tuyến Xử trí suy hô hấp Thiết lập một đường truyền tĩnh mạch adrenalin Các thuốc khác: methylprednisolon 1-2 mg/kg/4giờ hoặc hydrocortison hemisuccinate 5 mg/kg/giờ tiêm tĩnh mạch. Điều trị phối hợp. Uống than hoạt 1 g/kg nếu dị nguyên qua đường tiêu hóa. Băng ép chi phía trên chỗ tiêm hoặc đường vào của nọc độc. Lưu ý: Điều dưỡng có thể sử dụng adrenalin dưới da theo phác đồ khi y bác sĩ không có mặt. Hỏi kỹ tiền sử dị ứng và chuẩn bị hộp thuốc cấp cứu sốc phản vệ trước khi dùng thuốc là cần thiết. Nhóm thuốc dễ gây dị ứng cần theo dõi sát khi tiêm thuốc
Tiêu chuẩn xác định mũi tiêm an toànTiêu chuẩn cấu trúcBơm tiêm vô khuẩn. Kim tiêm vô khuẩn. Trên xe tiêm có hộp đựng vật sắc nhọn. Trên xe tiêm có hộp chống sốc đủ cơ số. Tiêu chuẩn quy trình
Quy trình điều dưỡngNhận địnhCác dấu hiệu chủ quan
Các dấu hiệu khách quan Đo dấu sinh hiệu, cân nặng. Đánh giá tình trạng hiện tại, tri giác của người bệnh: phản xạ nuốt? Có đang đặt sonde nuôi ăn? hay tri giác mê, lơ mơ để chọn phương pháp dùng thuốc hiệu quả và an toàn nhất cho người bệnh. Chẩn đoán điều dưỡng
Lập kế hoạch và can thiệp điều dưỡngYêu cầu chăm sóc
Lập kế hoạch và can thiệp Nhận định được người bệnh và hiểu rõ tại sao người bệnh được dùng thuốc Chuẩn bị thuốc dùng cho người bệnh
Thực hiện nguyên tắc vô khuẩn khi tiêm thuốc. Thực hiện 3 kiểm tra, 5 đối chiếu, 6 đúng trong suốt quá trình dùng thuốc. Dùng thuốc qua niêm mạc miệng không để cho người bệnh nuốt. Dùng thuốc qua da nên vệ sinh da sạch sẽ và lau khô trước khi dùng. Khi tiêm thuốc cần phải mang theo hộp thuốc chống sốc. Khi tiêm bất cứ đường tiêm nào đều không được đâm hết thân kim. Không được pha trộn các loại thuốc với nhau trong cùng một ống tiêm. Hoặc không được uống chung các loại thuốc với nhau khi không có y lệnh. j. Xác định vị trí tiêm đúng, nên thay đổi vị trí tiêm. Theo dõi và lượng giá sự đáp ứng thuốc của người bệnh. Chọn cỡ kim và chiều dài kim thích hợp. Kim không dính thuốc trước khi tiêm. Khi tiêm bắp loại thuốc có nguy cơ kích thích mô dưới da ta nên áp dụng cách tiêm Z tract. Khi tiêm Heparin không nên rút kim thử máu. Không nên massage vùng tiêm khi tiêm Heparin hoặc Insulin vì có thể gây tổn thương mô và giảm sự hấp thu. Chọn vùng tiêm: cơ thả lỏng không gồng cứng. Đâm và rút kim cùng 1 góc. Không nên tiêm lượng thuốc nhiều quá so với vị trí quy định. Tiêm thuốc từ từ khoảng 10 giây/1ml. Sau tiêm dùng lực nhẹ ấn lên vùng tiêm. Giải thích cho người bệnh hiểu về vai trò và tác dụng của thuốc. Theo dõi tình trạng người bệnh trong và sau khi tiêm. Ghi hồ sơ: chỉ ghi những loại thuốc do chính tay mình thực hiện: ngày, giờ tiêm thuốc, tên thuốc, liều lượng, phản ứng của người bệnh và tên người điều dưỡng thực hiện. Các phản ứng xãy ra nếu có, nếu không thực hiện được điều dưỡng phải ghi lại lý do tại sao. Giáo dục y tế cho người bệnh là vai trò rất quan trọng của điều dưỡng. Có một số người bệnh phải dùng thuốc suốt đời như bệnh cao huyết áp, tiểu đường người điều dưỡng cần phải giáo dục cho người bệnh chế độ ăn, sinh hoạt, dùng thuốc tùy loại thuốc để kết quả điều trị tốt hơn và ít gây tai biến hơn cho người bệnh. Hướng dẫn kỹ cho người bệnh những tác dụng chính và phụ của thuốc để họ có thể tự nhân biết những bất thường sớm. Thông qua việc giáo dục người bệnh khi sử dụng thuốc, điều dưỡng có thể giáo dục cho người bệnh thay đổi lối sống để có được sức khoẻ tốt nhất. Nếu tình trạng bệnh yêu cầu phải được tiêm thuốc mỗi ngày thì điều dưỡng có thể hường dẫn kỹ lưỡng cách tiêm để người bệnh có thể tự tiêm cho họ khi ở nhà. Tất cả các người bệnh đều được hướng dẫn cơ bản về các vấn đề an toàn trong dùng thuốc: Thuốc phải có nhãn rõ ràng, còn nguyên vẹn. Không dùng thuốc quá hạn. Phải dùng hết thuốc theo y lệnh không được tự ý ngưng nữa chừng. Bảo quản cất giữ thuốc ở vị trí an toàn tránh xa tầm tay trẻ em. Nếu thuốc được yêu cầu bảo quản lạnh, để thuốc vào tủ lạnh ngăn mát. Không được tự ý dùng thuốc khi chưa có y lệnh của bác sĩ. Đọc nhãn thuốc và tờ hướng dẫn sử dụng thuốc kỹ lưỡng. Lượng giá
|