Chuyên đề về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Tác phẩm“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”do C. Mác và Ph. Ăng-ghen soạn thảo và công bố trước toàn thế giới ngày 24-2-1848. Với tác phẩm này, lần đầu tiên giai cấp vô sản, những người cộng sản công khai tuyên bố quan điểm, mục đích của mình là xóa bỏ chế độ tư hữu, lật đổ chế độ tư bản, xây dựng một chế độ hoàn toàn mới - chế độ cộng sản chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”[1].

Bằng phương pháp duy vật biện chứng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã luận giải một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản; về tính tất yếu khách quan của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản. Bước quá độ đó diễn ra không phải tự phát mà phải bằng con đường cách mạng lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai ông đã phát hiện ra lực lượng xã hội có khả năng thực hiện bước quá độ đó là giai cấp công nhân - giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp - chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, theo các ông: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[2]. Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó, thì điều kiện tiên quyết là giai cấp vô sản phải tổ chức được chính đảng độc lập của mình. Chỉ khi nào giai cấp vô sản tổ chức được chính đảng của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định, trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập, đối lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp có của lập nên thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. “Sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng”[3].

Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, đảng không phải là cái gì khác mà là hiện thân của giai cấp đã đạt tới trình độ tự giác. Khi giai cấp công nhân và phong trào công nhân phát triển đến trình độ tự giác thì xuất hiện lãnh tụ chính trị. Đảng cộng sản ra đời là nhân tố cơ bản bảo đảm cho giai cấp công nhân, phong trào công nhân phát triển cao.

Đảng cộng sản ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã đạt đến trình độ tự giác. Đảng cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, có quan hệ thống nhất, chặt chẽ với giai cấp công nhân cả ở mục tiêu, lý tưởng, lợi ích, cả ý chí và hành động. Đảng luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để xem xét, giải quyết mọi vấn đề. Cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược của đảng phải luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Tuy nhiên, hai ông cũng chỉ rõ, Đảng không phải là toàn bộ giai cấp công nhân. Đảng là một bộ phận của giai cấp, là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, bao gồm những người ưu tú nhất, giác ngộ cách mạng nhất trong giai cấp công nhân. Vì thế, đảng tiên phong cả về lý luận và thực tiễn. “về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”[4]. “về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên”[5]. Chính tính tiền phong của đảng bảo đảm cho đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, tập hợp được giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để thực hiện mục tiêu cách mạng.

Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, để thực hiện được mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản phải tổ chức, tuyên truyền, giác ngộ giai cấp vô sản tiến hành cách mạng vô sản, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản; đồng thời, sử dụng chuyên chính vô sản để từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - đó là một xã hội không còn giai cấp, nhà nước, không có áp bức, bóc lột, bất công, mọi người bình đẳng, làm chủ tự nhiên, xã hội, bản thân và có điều kiện phát triển toàn diện.

Một trăm sáu mươi lăm năm đã trôi qua, kể từ khi“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”ra đời, dù cho thế giới có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp, thế nhưng, giá trị lịch sử, giá trị thời đại của tác phẩm bất hủ ấy vẫn luôn tỏa sáng, là thế giới quan, phương pháp luận, vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vĩ đại vì sự nghiệp giải phóng con người. Khẳng định giá trị vĩnh hằng của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, V. I. Lê-nin viết: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”[6].

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen về đảng cộng sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, đưa cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được nhiều thắng lợi to lớn; đồng thời, luôn chăm lo xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị.

Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, trọng trách của Đảng càng nặng nề. Để hoàn thành trọng trách đó, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng về đảng cộng sản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái”[7]. Để thực hiện được điều đó, công tác xây dựng Đảng cần chú trọng vào những vấn đề cơ bản sau:

Một là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trình độ lý luận chính trị, sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ, đảng viên là cơ sở quan trọng, vững chắc để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Mọi ý kiến bất đồng, nhận thức sai trái về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ làm cho Đảng suy yếu, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, là nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, cần đổi mới và nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Qua đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn khẳng định và tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, thường xuyên giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, nâng cao sức “đề kháng” của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước các thủ đoạn tấn công của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chống “tự diễn biến”, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội.

Hai là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong sinh hoạt và hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Thực hiện nguyên tắc này góp phần giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; bảo đảm cho Đảng là một chỉnh thể, một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; đồng thời khắc phục mọi biểu hiện lệch lạc, sai trái do tác hại của bệnh quan liêu, gia trưởng, độc đoán chuyên quyền, cục bộ, bè phái gây ra. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng về vị trí, vai trò, nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục cụ thể hóa nội dung, yêu cầu của nguyên tắc này thành quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng. Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng. Có cơ chế mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong sinh hoạt và hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng. Nâng cao chất lượng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy vai trò của các cấp ủy đảng trong việc bàn bạc, quyết định những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, phân công, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện của cán bộ, đảng viên, nhất là hoạt động của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong Đảng.

Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là “thang thuốc hiệu nghiệm”, biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên yêu thương, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc vai trò của tự phê bình và phê bình; có động cơ, thái độ, trách nhiệm tự phê bình và phê bình đúng đắn, trong sáng; tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng phê bình để bôi nhọ, vu cáo, hạ uy tín cá nhân, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ.

Phát huy vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đoàn thể nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của đảng viên, phát hiện những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện công khai hóa, dân chủ hóa những vấn đề liên quan đến tài chính, kinh tế; hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện những điều đảng viên không được làm. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng, công tác thanh tra của Nhà nước, công tác giám sát của các đoàn thể nhân dân. Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của đoàn thể.

Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên nhằm xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát triển những giá trị to lớn của“Tuyên ngôn củaĐảng Cộng sản”./.

-------------------------------------------------------

[1], [2] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 595, 610

[3], [4], [5] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 4, tr. 609,615, 614-615

[6] V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1978, t. 2, tr. 10

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 89-90

Nguyễn Huy HoàngThượng tá, ThS,

Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng

Nguồn: //www.tapchicongsan.org.vn/

Video liên quan

Chủ Đề