Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn Chữ người tử tù

Đây là tài liệu vô cùng hữu ích giúp cho có thêm cách viết văn nghị luận xã hội lớp 12, cũng như chuẩn bị hành trang để bước vào kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia sắp tới. Sau đây wikisecret xin mời tất cả các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và những bài văn mẫu nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.

Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Chứng minh qua chi tiết “chiếc bóng” trong Chuyện người con gái Nam Xương

Việc lập dàn ý tưởng chừng thừa thãi nhưng lại có tác dụng và hiệu quả to lớn đến chất lượng của bài văn. Công đoạn lập dàn ý là lúc chúng ta suy nghĩ, sắp xếp các ý, các chi tiết sao cho thật mạch lạc, rõ ràng và dễ dàng chỉnh sửa những điểm chưa vừa lòng. Việc lập dàn ý cũng giúp cho chúng ta hình thành bài văn nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn. Chúng ta càng lập dàn ý chi tiết bao nhiêu thì bài văn càng hay, đầy đủ ý bấy nhiêu. Chính vì vậy, mỗi bạn học sinh hãy cố gắng dành thời gian để lập dàn ý cho bài văn của mình trước khi đặt bút viết.

Mở bài:

  •  Giới thiệu khái niệm chi tiết, chức năng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm.
  •  Đề cập quan điểm của M.Gorki- vấn đề cần nghị luận “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
Dàn ý nghị luận về ý kiến Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

Thân bài:

  •  Nêu một số khái niệm liên quan đến vấn đề cần nghị luận: khái niệm văn học, tác phẩm văn học, cảm thụ văn học, hình tượng văn học, nhãn tự, tứ thơ…
  •  Lý giải tại sao chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn?. Ý nghĩa của chi tiết trong tác phẩm.
  •  Phân tích cụ thể về quan điểm chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn qua một số tác phẩm cụ thể và điển hình.

Kết bài:

  •  Tóm lược ý chính trong bài viết, giá trị của chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
  •  Bày tỏ cảm nghĩ khi phân tích và nghị luận chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.

Một tác phẩm hay không chỉ nằm ở giá trị nội dung mà còn nằm ở giá trị nghệ thuật. Hai giá trị ấy đã được kết tinh trong từng chi tiết được nhà thơ đặc tả. Một chi tiết hay không chỉ gợi nội dung liên tưởng độc đáo mà còn phải là một sự chỉn chu thăng hoa về mặt nghệ thuật, có như vậy mới neo đậu được trong lòng người. Nhà văn nhà thơ lại càng phải nghiêm túc với công việc sáng tạo của mình để có thể tạo nên một tác phẩm hay đến với người đọc. Còn bản thân người đọc cần phải suy ngẫm chiêm nghiệm nghiêm túc hơn tránh cái nhìn hời hợt nông cạn. Có như thế người đọc mới có thể giải mã những dụng ý nhà văn đã sáng tạo.

Tổng hợp những bài văn mẫu nêu lên nhận định về câu nói chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

Có thể nói rằng, văn học là một chiếc gương phản ánh rõ nét cuộc sống. Nó phản chiếu tình mẫu tử thiêng liêng và cao quí, nó nói lên cái tàn ác đến vô tình của “những trái tim đen” hay nó vẽ lên viễn cảnh đáng thương của thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Văn học đến với con người và cũng tạo nên trong trái tim người đọc sự cảm thông sâu sắc. Một trong những thành công tạo nên tác phẩm đó là việc sử dụng chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Những chi tiết đó đã góp phần phản ánh lên cuộc sống nội tâm nhân vật hay đơn giản là thể hiện cái tài của người viết. Bởi vậy, có người đã nói rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết chiéc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một chi tiết như thế.

Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn chuyện người con gái nam xương

Làm nên thành công của một tác phẩm tự sự cần kể đến nhiều yếu tố trong đó không thể không kể đến chi tiết nghệ thuật. Vậy “chi tiết” là gì ? Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ nhất , quan trọng nhất để tạo nên tác phẩm. Vì sao “chi tiết nhở làm nên nhà văn lớn” vì chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vo cùng quan trọng trong tác phẩm. Chi tiết có khả năng thể hiện, giải thích, làm xác minh cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật. Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù, tầm vóc của người nghệ sĩ có thể làm nên từ những từ những yếu tố nhỏ nhất. Nhà văn lớn có khả năng sáng tạo được những chi tiết nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga Maxin Gorki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Hơn ai hết, tác giả của những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Cái làm nên tầm vóc của nhà văn không hẳn là qui mô tác phẩm mà là những “chi tiết” –yếu tố đôi khi được coi là nhỏ, là vặt vãnh. Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời của nhà văn, nới kí thác những ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Nhà văn chỉ thực sự là “thư kí trung thành của thời đại” khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lỗ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút.

Trong truyện ngắn, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tình cách, tâm trạng, hình dáng, số phậ của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Nhiều chi tiết trở thành điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt chuyện, gắn liền với bước ngoặt trong cuộc đời, số phận nhân vật. Thiếu chi tiết là thiếu sựu đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên nhạt nhẽo, hời hợt, thiếu sức hấp dẫn.

Chiếc bóng trong “Chuyện người con gái Nam Xương”  của Nguyễn Dữ là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, có sức chứa lớn về cảm xúc và chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, có ý nghĩa trong việc phát triển và dẫn dắt câu chuyện.

Lần thứ nhất, cái bóng xuất hiện trong lời nói của bé Đản với Trương Sinh vừa từ chiến trường trở về: “ Thế ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói chứ không giống cha tôi trước kia chỉ nín thít”. “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Đó chỉ là lời nói ngây thơ của một đứa trẻ lên ba nhưng vì tính đa nghi hay ghen, lại đang trong đau buồn vì mất mẹ, mệt mỏi vì trận mạc khiến Trương Sinh đinh ninh vợ hư rồi mắng nhiếc đuổi đi. Như vậy sự xuất hiện của cái bóng đã làm nảy sinh mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt, không sao gỡ giải được , dẫn đến kết cục bi thảm: Hạnh phúc gia đình tan nát, Vũ Nương tự tử. Ở đây, chiếc bóng chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng nó là đầu mỗi của câu chuyện bi thảm, vừa tạo nên mâu thuẫn vừa đẩy mâu thuẫn lên đỉnh điểm.

một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

Trong một đêm khuya, Trương Sinh ngồi với bé Đản và bất ngờ được bé chỉ bóng chàng trên vách mà nói: “Cha Đản lại đến kìa !”. Nghe con nói lúc này, Trương Sinh mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ. Chẳng cần nói năng điiều gì, cái bóng chỉ lặng lẽ xuất hiện, đã hoá giải được nỗi oan  khuất của Vũ Nương và khiến người đọc như vỡ oà trong tiếng khóc thương cho số phận của nhân vật chính. Cái bóng làm cho Trương Sinh thấu tỏ nỗi oan tình của vợ. Mâu thuẫn được giải quyết nhưng hạnh phúc gia đình
không còn, lỗi lầm không sao sửa đổi, ân hận cũng đã muộn màng. Như vậy, sự xuất hiện của cái bóng ở đây tô đậm thêm tính bi kịch của tác phẩm, làm người đọc xót xa cho số phận của Vũ Nương cũng như số phận bao người phụ nữ mong manh , lay lắt . Chính chi tiết “Cái bóng” đã tạo nên sự hoàn chỉnh , chặt chẽ cho cốt chuyện: thắt nút, mở nút, mâu thuẫn bất ngờ, hợp lý.

Không những vậy, chi tiết “Chiếc bóng” đã góp phần không nhỏ vào việc bộc lộ chủ đề tác phẩm và thể hiện thái độ của Nguyễn Dữ.

“Chiếc bóng “ tô đậm thêm vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò làm vợ, làm mẹ. Đó là nỗi  nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn “xa mặt nhưng không cách lòng”, với người chồng nơi chiến trường, đó là tấm lòng người mẹ muốn khoả lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con thơ bé bỏng. Nàng muốn kéo gần tình cảm cha con cho bé Đản. Cái bóng đó chẳng phải là bóng nàng đó sao? Cái bóng ấy chính là bóng nàng hàng đêm thao thức , không ngủ vì mong nhớ, thấp thỏm lo âu chồng nơi chiến trận. Vũ Nương  đã làm vơi đi nỗi nhớ, nỗi khát khao cha nới bé Đản nhưng lại càng khắc sâu thêm nỗi nhớ chồng của mình. Nếu như Trương Sinh hiểu nàng thì nàng đã được an ủi phần nào. Song tai vạ, bi kịch của Vũ Nương cũng trực tiếp này sinh từ câu chuyện cái bóng. Nàng đã lấy “hư” làm “thực” , lấy “bóng” làm “hình” , tạo nên trò chơi trong thương nhớ. Nó gieo vào lòng Trương Sinh mối nghi ngờvề tiết hạnh của Vũ Nương.

“Chiếc bóng” là một ẩn dụ – nó mong manh như số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù là một người phụ nữ đức hạnh nhưng cũng có thể bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân nào mà họ thể lường trước được. Phải chăng, “Chiếc bóng” cũng hàm chứa một triết lí nhân sinh ?  Vì trong cuộc đời, ai có thể biết hết được chữ “ngờ” ? Hình ảnh “chiếc bóng” xuất hiện lần thứ hai đã nói lên một điều : người phụ nữ trong xã hội phong kiến là nạn nhân của bi kịch gia đình, bi kịch xã hội. “ Cái bóng” là cái không có thực nhưng nó lại quyết định số phận con người. Nó lặng lẽ nhưng đem đến cho tác phẩm một chiều sâu giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực.

“Chiếc bóng” xuất hiện ở cuối tác phẩm : “Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến mất đi”. Chi tiết này thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với chuyện cũ “Vợ chàng Trương” tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm, tưởng như câu chuyện kết thúc có hậu nhưng lại càng tô đậm thêm bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ . Nguyễn Dữ đã để Vũ Nương trở về, nhưng nàng chỉ trở về trong chốc lát, thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện giữa dòng sông rồi biến mất. Đối với Vũ Nương, đàn giải oan chỉ là một chút an ủi với người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa, nỗi oan được giải nhưng hạnh phúc thự sự đâu có thể tìm lại được. Tiếng nói của nàng từ giữa dòng sông vọng vào, vừa xiết bao đau xót, vừa như một lời kết tội đanh thép xã hội đương thời bất công đã đày đoạ, đã tàn nhẫn cướp đi cả cuộc đời, cả hạnh phúc của một con người hoàn toàn có quyền được sống và hanh phúc. Và như thế “chiếc bóng” còn mang ý nghĩa là bài học về hạnh phúc muôn đời : một khi đánh mất niềm tin, hạnh phúc chỉ còn là một chiếc bóng hư ảo. Chi tiết “chiếc bóng” còn là một bài học đắt giá cho những người đàn ông có tính ghen tuông bóng gió mù quáng. Việc gì cũng phải bình tĩnh, sáng suốt giải quyết. Điều quan trọng là phải giữ gìn được hạnh phúc gia đình. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn nhưng giữ được hạnh phúc lâu bền còn là một điều khó khăn hơn. Chi tiết “chiếc bóng” là một chi tiết đặc sắc của tác phẩm, là thông điệp muôn đới cho mọi người: Đã yêu thương nhau phải tin tưởng, đừng để cái bóng rập rình, giết chết tình yêu, hạnh phúc gia đình.

chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn

Chúng ta khó có thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của “ chi tiết “ trong tác phẩm nghệ thuật . Với nhà văn , quá trình sáng tạo gắn liền với ý thức làm nên những chi tiết đặc sắc , góp phần thể hiện nội dung , chủ đề của tác phẩm . Với người đọc , cảm nhận chị tiết nghệ thuật là mở những cánh cửa đầu tiên để đi vào thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học . Người đọc sẽ không cảm nhận được cái hay của tác phẩm nêu không thông qua tác phẩm từ những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhất bởi chân lí trong sáng tạo nghệ thuật luôn là : “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.

Theo quy luật điển hình hóa của văn học, qua một giọt sương để thấy cả bầu trời. Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào trong một giọt nước, cả vũ trụ vào một giọt sương. Tầm cỡ nhà văn là viết về những cái không đâu, vặt vãnh nhưng khơi gợi được những vấn đề lớn, liên quan đến số phận con người, nhân loại.

Một tác phẩm văn học ra đời đều là một quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Từng chi tiết, từng hình ảnh nhân vật trong tác phẩm đều là tâm huyết của nhà văn. Có thể là từ những gì đời thường mà nhà văn nhìn thấy, hay có thể là do chính nhà văn sáng tạo ra để mang đến cho độc giả một ý nghĩa nào đó. Mỗi chi tiết trong tác phẩm đều nói lên một điều gì đó, có chi tiết nhỏ, có thể làm nên được nhà văn lớn.

Chi tiết trong mỗi tác phẩm được hiểu như thế nào? chi tiết là những sự việc, tình tiết mà nhà văn thấy hoặc tự sáng tạo ra. Nhằm cho ta thấy rõ hơn, sâu sắc hơn, ý nghĩa mà tác phẩm hay chính Nhà văn mang lại. Một chi tiết nhỏ trong tác phẩm có thể làm nên tên tuổi sức, sống của một nhà văn. Trong kho tàng văn học có vô số những tác phẩm, hay nhiều chi tiết đặc sắc. Từ nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, Chí Phèo con quỷ dữ của làng Vũ Đại, nhưng cũng có lúc rơi nước mắt vì cảm động, tự kết liễu đời mình để nói lên phần nhân tính trong con người vẫn còn. Đến Lão Hạc, một người nông dân hiền lành, chất phát, giàu lòng tự trọng, thà chết chứ không chịu nhận sự giúp đỡ của một ai. Chi tiết liên nhớ đến ngọn đèn leo lét của chị tí, giữa màn đêm tăm tối, đặc biệt không thể thiếu chi tiết Huấn Cao cho chữ, trong cảnh vô cùng khác biệt trong “Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân.

Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn chiếc lược ngà

Trong tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, Có nhiều chi tiết viên quản ngục với tấm lòng chân thành đến chỗ Huấn Cao. Nhưng được đáp lại bằng thái độ khinh thường, rẻ mạt. Huấn Cao nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, cảnh cho chữ vô cùng đặc biệt. Từng chi tiết, sự việc trong tác phẩm đều mang một ý nghĩa riêng. Nó nói lên tính cách con người của nhân vật Huấn Cao, một người chính trực, rất tự trọng, dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình. Dù trong cảnh tù hãm vẫn không ngần ngại sỉ nhục viên quản ngục, vì ông cho rằng tất cả mọi kẻ tay sai cho xã hội đó đều không ra gì. Viên quản ngục người luôn bị nói là ác độc, làm tay sai cho bọn ác nhân hẳn là người không ra gì. Chịu mọi tai tiếng, nghe đủ điều không hay nhưng không bao giờ con người ấy trách mắng một ai. Ngược lại luôn ân cần, quan tâm đến Huấn Cao. Tuy không có tài, nhưng viên quản ngục lại hiểu thấu được tâm tư, nỗi lòng của người tài. Với tấm lòng chân thành, thái độ điềm đạm không oán trách của viên quản ngục. Huấn Cao đã vô cùng hối hận, vì chút nữa đã bỏ lỡ một tấm lòng cao quý trên đời này. Ta vẫn thường nói, hoàn cảnh làm nên tính cách con người. Điều kiện sống tốt, thì con người tốt. Còn hoàn cảnh tối tăm, thì con người cũng xấu xa, không tốt. Nhưng qua chi tiết trên ta đã thấy, không phải cứ sống trong ánh sáng là tốt. Còn người sống trong hoàn cảnh xấu là con người xấu. Viên quản ngục sống trong môi trường khắc nghiệt, sự tàn bạo của xã hội phong kiến nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp của mình, không vì danh lợi mà đánh mất đi nhân phẩm của mình và của con người nói chung, tấm lòng ấy đã làm cảm động Huấn Cao.

Một sự chân thành đến vậy Huấn Cao sao nỡ từ chối nguyện vọng muốn xin chữ của viên quản ngục được. Trong cảnh tù ngục tối tăm, bẩn thỉu, trên nền toàn những phân chuột, phân gián, mùi hôi thối bốc lên. Vậy mà người nghệ sĩ ấy vẫn có thể sáng tạo nghệ thuật một cách say sưa, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, một người trước ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Nhưng vẫn thản nhiên không chút bận tâm mình sẽ chết, sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật nơi tù túng, quả là một điều phi thường “Chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục đã khiến Huấn Cao vô cùng cảm động. Dồn hết tâm huyết tác giả lại cho tấm lòng ấy.

Chỉ một chi tiết nhỏ trong tác phẩm, cũng để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, làm nên một nhà văn lớn “Chữ Người Tử Tù” như một bản nhạc, đầy những bản nhạc xô bồ của cuộc sống. Nổi bật lên âm thanh trong trẻo, tươi sáng của viên quản ngục. Những lời nói ân cần của Huấn Cao khi khuyên viên quản ngục tìm một nơi mình có thể sống là chính, con người mình không bị gò ép trong một khuôn khổ nào. Cho thấy Huấn Cao thật sự không những là người tài, mà tấm lòng đạo đức rất sáng, lại luôn tràn đầy trong con người nghệ sĩ.

Thạch Lam một con người dịu dàng, nhẹ nhàng coi văn chương là một thứ khí giới thành cao, để thanh lọc tâm hồn. Tìm cái đẹp ở những nơi tầm thường nhất, ít ai để ý. Nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ” như hiện thân của Thạch Lam, một cô gái mới lớn nhưng mang nỗi u sầu, ngồi lặng trong đêm tối, nghĩ về cuộc sống, nghĩ về ngọn đèn leo lét giữa màn đêm đen tối của Phố huyện nghèo. Về những con người với số phận hẩm hiu, cùng với niềm hi vọng mong manh về một tương lai tươi sáng phía trước. Đồng thời Thạch Lam cũng muốn nói lên tinh thần của những con người, dù trong hoàn cảnh nào vẫn không bao giờ hết hy vọng, hết ước mơ, vẫn luôn sống vì một tương lai tốt đẹp.

một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn

Hay Nam Cao cũng đã thành công trong nhân vật Chí Phèo của mình, từ một chi tiết rất nhỏ, rất tầm thường, tưởng chừng như ít ai để ý đến cũng nói lên nam cao là một người rất tinh tế. Một con cóc xuất hiện trong cuộc tình của Chí Phèo và Thị Nở, thì hầu như mọi thứ đều xoay về phía con cóc, Nam Cao có thể tự mình nhìn ra và cảm nhận nhưng không. Nhà văn đã dùng con cóc làm ống kính nhìn, quan sát sự việc diễn biến một cách rất tinh tế, điều đó cho thấy nam cao là một người nghệ sĩ luôn biết chừng của một người nghệ sĩ, cái gì nên tự mình quan sát, cái gì không nên.

Có rất nhiều chi tiết tử mỗi tác phẩm, quan trọng là chi tiết đó nói lên cái gì? Nguyễn Tuân một người quan niệm về cái đẹp phải tuyệt mỹ, không ai có được. Đúng vậy con người ấy đã làm được một cảnh tượng Xưa nay chưa từng có, một chi tiết làm nên nhà văn Nguyễn Tuân. Nếu như viên quản ngục là người biệt những thiên tài, chỉ Huấn Cao là người biệt nhưỡng thiên lương, sáng tạo nghệ thuật trong Huấn cao còn căn dặn viên quản ngục những lời chí cốt “đây không phải là nơi treo những chữ như vậy, tìm một nơi treo để nói lên hoài bão của mình”.

Qua cảnh cho chữ Nguyễn Tuân muốn nói lên cái đẹp luôn đi cùng với cái đạo đức, cái thiên lương “Tài mà không đức, thì cũng không là gì hết”, vậy nên cái quan trọng là phải có đức, có tâm.

Chi tiết nhỏ nhà văn lớn Nguyễn Tuân cùng nhiều các nhà văn đã làm nên được tên tuổi bằng tâm huyết nghệ thuật của mình, không cần phải những cái gì to lớn, mà chỉ cần một chi tiết nhỏ ta cũng có thể nói lên tính cách con người đó.

Văn học là đứa con tinh thần của nhà văn nhà thơ được cấu thành từ nhiều yếu tố. Đó là sự chắt lọc về mặt ngôn ngữ, việc xây dựng hình ảnh đầy dụng tâm của nhà văn, nhà thơ. Một tác phẩm dài ngắn không quan trọng, mà hơn cả đó chính là sự neo đậu trong lòng người. Đôi khi chỉ cần một chi tiết nhỏ nhưng lại để lại dấu ấn muôn đời, tạo thành nét riêng độc đáo của tác giả. Đó là lý do vì sao nhà văn lớn người Nga Maksim Gorky đã khẳng định “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.

Văn học trong khái niệm thuộc về nghệ thuật chính là dạng văn bản hoặc bất kỳ một tác phẩm nào được coi là có giá trị nghệ thuật hoặc trí tuệ. Văn học còn được hiểu là hình thái ý thức của xã hội, văn học còn là một bộ môn nghệ thuật nhưng khác biệt lại ở chính nhờ đặc trưng trong chất liệu sáng tác văn học.

Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn cái bóng

Theo định nghĩa thì tác phẩm văn học chính là một bức tranh đầy sinh động về đời sống của con người. Một tác phẩm văn học bao giờ cũng là một sáng tác cụ thể với ngôn ngữ hoàn chỉnh. Qua một tác phẩm văn học bất kỳ, tác giả bao giờ cũng gửi gắm thái độ, tư tưởng, tình cảm và quan điểm của chính mình trước nhân tình thế thái.

Trong khái niệm thì cảm thụ văn học được hiểu là những cảm nhận sâu sắc, đẹp đẽ đầy tế nhị mang những giá trị nổi bật được thể hiện trong lời văn, ý thơ, truyện ngắn hoặc một bộ phận của tác phẩm văn học…

Hình tượng văn học còn được hiểu là hình tượng nghệ thuật – theo khái niệm chính là việc thể hiện, chiếm lĩnh hay tái tạo lại hiện thực theo quy luật của tưởng tượng hay hư cấu nghệ thuật. Thông qua hình tượng văn học, người nghệ sĩ làm sống lại một cách chân thực, chi tiết và đầy cụ thể về những hiện tượng, sự việc khiến người đọc phải ngẫm nghĩ, suy luận về những triết lý được gửi gắm, về tình đời, tình người, về số phận được gửi gắm.

Cũng như nhiều khái niệm trong văn học nghệ thuật, tứ thơ là một khái niệm quen thuộc được nhiều người quan tâm từ xưa đến nay. Có thể hiểu tứ thơ chính là cách liên kết và sắp xếp một cách hợp lý chặt chẽ các ý thơ cũng như mọi yếu tố cấu thành nhằm tập trung làm nổi bật chủ thể trữ tình cũng như biểu đạt hiệu quả nội dung tư tưởng của bài thơ.

Bên cạnh đó, tứ thơ còn được hiểu là khung kết cấu mà trong đó mạch thơ luôn luôn vận động. Luôn cần phải có tứ thơ dẫn dắt, nếu không ý thơ sẽ bị tản mạn. Có thể thấy, nhà thơ là người phải giúp tứ thơ được “đầu thai” từ nghệ thuật của ngôn từ. Do đó, tứ thơ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thẩm mỹ của toàn bài thơ. Thi nhân Xuân Diệu từng quan niệm về tứ thơ “Thơ chính là sự hóa thân từ một hình tượng cụ thể”.

Nhãn tự hay còn được gọi là “thi nhãn” nghĩa là “con mắt của bài thơ, của tác phẩm”. Nhãn tự chính là điểm sáng giúp làm phát lộ tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Một tác phẩm xuất sắc, một bài thơ hay không thể thiếu “nhãn tự”, ví dụ trong tác phẩm Mộ [Chiều tối] của Hồ Chí Minh thì từ “hồng” chính là nhãn tự của bài thơ.

Về vai trò và chức năng của chi tiết nghệ thuật trong một tác phẩm, nhà văn lớn người Nga M.Gorki đã cho rằng “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Trước khi bàn luận về tính xác đáng của nhận định ta phải tìm hiểu nội dung của nhân định ấy.

chi tiết nhỏ

Chi tiết là gì? Theo định nghĩa, chi tiết chính là một trong yếu tố cấu thành nên cốt truyện, diễn biến sự việc. Chi tiết đó có thể chỉ là một sự kiện nhỏ, một ánh mắt, một câu nói hay một sự thay đổi của cảnh vật. Trong nhận định đã sử dụng hai hình ảnh có phần đối lập nhau “chi tiết nhỏ” – “nhà văn lớn” để nhằm nhấn mạnh vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật không chỉ làm nên sự thành công của cốt truyện, của tác phẩm mà còn góp phần nâng tầm giá trị của nhà văn.

Trong tác phẩm có nhiều chi tiết nhưng không phải chi tiết nào cũng làm nên thành công lớn của tác giả. Mà đó phải là những chi tiết chứa đựng giá trị nghệ thuật sâu sắc cũng như giá trị nhân sinh mà tác giả muốn truyền tải qua tác phẩm. Chi tiết ấy vừa là sự cô đọng của nghệ thuật và nội dung, lại vừa làm nên sự độc đáo không trùng lặp với bất kỳ tác phẩm của tác giả nào khác.

Chi tiết chính là một lát cắt của đời sống được nhà thơ chắt lọc qua lăng kính chủ quan của mình và thổi hồn cũng như cảm xúc vào đó. Vì vậy, chi tiết vừa thể hiện được tài năng của tác giả vừa thể hiện được góc nhìn, quan điểm của tác giả về vấn đề nào đó được nói đến. Ngoài ra, chi tiết ấy còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cốt truyện, tạo ra bước ngoặt để nhân vật bày tỏ thái độ, tình cảm. Đó cũng là cách để nhân vật bộc lộ nhân cách của mình.

Nói “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là vì chi tiết ấy thể hiện tài năng của nhà thơ, nhà văn. Và điều quan trọng là phải gắn với một tầm vóc tư tưởng của nhà thơ, nhà văn. Vì vậy đây là một nhận định hoàn toàn chính xác. Tác phẩm văn học chỉ gói gọn vài khoảnh khắc cô đọng của cuộc sống nên chính chi tiết đã góp phần dồn nén cái tình cái cảnh mà nhà văn muốn nói. Đó là chất nhựa của cuộc sống căng tràn hòa quyện cùng tình cảm của người nghệ sĩ để tạo nên. Và đó cũng là cái ghi dấu trong lòng người đọc. Khi nhắc về tác giả, về tác phẩm người đọc sẽ không nhớ đến tác giả ấy đã sáng tác nên những tuyệt phẩm nào gây được nao tiếng vang mà điều duy nhất người đọc nhớ đến đó là chi tiết. Cái chi tiết ấy chứa đầy tình cảm lắng đọng những suy tư.

Ước muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà là cái sở nguyện cả đời của viên quản ngục. Huấn Cao đồng ý cho chữ là vì hiểu tấm lòng của viên quản ngục – đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu chứ không phải vì được đối đãi thân tình. Chữ của Huấn Cao không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà nó còn có giá trị về mặt tinh thần. Phân tích nhân vật viên quản ngục, ta cũng nhận thấy đây là con người rất say mê cái đẹp, trân trọng sự thiện lương.

Có thể nói chữ thư pháp ấy là kiệt tác cuối đời của Huấn Cao cũng là di nguyện của ông. Bởi ngày mai ông sẽ ra pháp trường chịu tội nhưng cái đẹp, cái tài ấy không sao bị lãng quên bởi nó đã gieo mầm vào trong tâm khảm của viên quản ngục của thầy thơ lại. Chữ viết ấy còn mang sức mạnh phục thiện làm cho những kẻ u mê tỉnh ngộ như chính viên quản ngục đã nói “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Khi phân tích cảnh cho chữ, ta thấy đó cũng chính là sức mạnh của cái đẹp. Với hình tượng nhân vật Huấn Cao, ta thấy cái đẹp thật mong manh có thể bị hủy hoại bị giết chết nhưng khi nó đi chung với cái thiện thì sẽ mãi mãi trường tồn.

chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn

Một tác phẩm hay không chỉ nằm ở giá trị nội dung mà còn nằm ở giá trị nghệ thuật. Hai giá trị ấy đã được kết tinh trong từng chi tiết được nhà thơ đặc tả. Một chi tiết hay không chỉ gợi nội dung liên tưởng độc đáo mà còn phải là một sự chỉn chu thăng hoa về mặt nghệ thuật, có như vậy mới neo đậu được trong lòng người. Nhà văn nhà thơ lại càng phải nghiêm túc với công việc sáng tạo của mình để có thể tạo nên một tác phẩm hay đến với người đọc. Còn bản thân người đọc cần phải suy ngẫm chiêm nghiệm nghiêm túc hơn tránh cái nhìn hời hợt nông cạn. Có như thế người đọc mới có thể giải mã những dụng ý nhà văn đã sáng tạo.

Nhận định trên là một nhận định hoàn toàn chính xác. Sự thành công của tác phẩm được cấu thành do nhiều yếu tố nhưng không thể không nhắc đến những chi tiết nhỏ đắt giá. Đó là hạt bụi vàng làm nên sức sống trường tồn của tác phẩm cùng với thời gian.

  • Nghị luận về bài học được rút ra trong câu chuyện: Thuốc chữa bệnh đau buồn Nguồn: //vanmau top/nghi-luan-ve-bai-hoc-duoc-rut-ra-trong-cau-chuyen-thuoc-chua-benh-dau-buon html#ixzz6peXnnNTb

Video liên quan

Chủ Đề