Chủng tộc la gì

Phân biệt chủng tộc được biết đến là đối xử phân biệt các loại người theo màu da, dòng dõi hay nguồn gốc dân tộc, nhằm mục đích hủy bỏ hay gây tổn hại cho việc thừa nhận, hưởng thụ, thực hiện quyền con người một cách bình đằng trong các lĩnh vực. Ở thời đại ngày nay, liệu còn những biểu hiện của chủ nghĩa phân biệt hay không? Nguyên nhân và hướng giải quyết là gì? Bài viết dưới đây của GIAIDAPVIET.COM sẽ tìm hiểu về vấn đề phân biệt chủng tộc.

Phân biệt chủng tộc là niềm tin rằng các nhóm người sở hữu những đặc điểm hành vi khác nhau tương ứng với ngoại hình và có thể được phân chia dựa trên sự vượt trội của chủng tộc này so với chủng tộc khác. Nó cũng có thể có nghĩa là định kiến, phân biệt đối xử hoặc đối kháng nhắm vào người khác vì họ thuộc chủng tộc hoặc sắc tộc khác. Các biến thể hiện đại của phân biệt chủng tộc thường dựa trên nhận thức xã hội về sự khác biệt sinh học giữa các dân tộc. Những quan điểm này có thể ở dạng hành động xã hội, thực tiễn hoặc tín ngưỡng hoặc hệ thống chính trị trong đó các chủng tộc khác nhau được xếp hạng là vượt trội hoặc kém hơn nhau, dựa trên những đặc điểm, khả năng hoặc phẩm chất được thừa nhận chung.

Chủng tộc la gì

Trong điều kiện của hệ thống chính trị (ví dụ, phân biệt chủng tộc) có hỗ trợ sự biểu hiện của định kiến hay ác cảm trong hành động kỳ thị hoặc pháp luật, phân biệt chủng tộc ý thức hệ có thể bao gồm liên quan đến các khía cạnh xã hội như nativism, bài ngoại, phân biệt đối xử, phân chia chủng tộc, thứ bậc xếp hạng, và chủ nghĩa thượng đẳng.
Trong khi các khái niệm về chủng tộc và sắc tộc được coi là riêng biệt trong khoa học xã hội đương đại, hai thuật ngữ này có một lịch sử tương đương lâu dài trong cách sử dụng phổ biến và tài liệu khoa học xã hội cũ. “Dân tộc” thường được sử dụng theo nghĩa gần gũi với một “truyền thống” theo truyền thống: sự phân chia các nhóm người dựa trên phẩm chất được coi là thiết yếu hoặc bẩm sinh cho nhóm (ví dụ: tổ tiên chung hoặc hành vi chia sẻ). Do đó, phân biệt chủng tộc và phân biệt chủng tộc thường được sử dụng để mô tả phân biệt đối xử trên cơ sở sắc tộc hoặc văn hóa, không phụ thuộc vào việc những khác biệt này được mô tả là phân biệt chủng tộc. Theo một công ước của Liên Hợp Quốc về phân biệt chủng tộc, không có sự phân biệt giữa các thuật ngữ “phân biệt chủng tộc” và “sắc tộc”. Công ước Liên hợp quốc kết luận thêm rằng sự vượt trội dựa trên sự phân biệt chủng tộc là sai về mặt khoa học, đáng lên án về mặt đạo đức, bất công xã hội và nguy hiểm. Công ước cũng tuyên bố rằng không có sự biện minh nào cho sự phân biệt chủng tộc, ở bất cứ đâu, trên lý thuyết hoặc trong thực tế.

Chủng tộc la gì

Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một khái niệm tương đối hiện đại, phát sinh trong thời đại châu Âu của chủ nghĩa đế quốc, sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa tư bản và đặc biệt là buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, trong đó nó là một động lực chính. Nó cũng là một lực lượng chính đằng sau sự phân biệt chủng tộc, đặc biệt là ở Hoa Kỳ trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và Nam Phi dưới thời apartheid; Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở thế kỷ 19 và 20 trong văn hóa phương Tây đặc biệt được ghi chép lại và tạo thành điểm tham chiếu trong các nghiên cứu và diễn ngôn về phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã đóng một vai trò trong các cuộc diệt chủng như Holocaust, diệt chủng người Armenia và diệt chủng người Serb và các dự án thuộc địa bao gồm thực dân châu Âu của châu Mỹ, châu Phi và châu Á cũng như sự trục xuất người thiểu số bản địa. Người dân bản địa đã từng là người Haiti và là người thường xuyên phải tuân theo thái độ phân biệt chủng tộc.

Nguyên Nhân

Đâu là nguyên nhân của não trạng ‘phân biệt chủng tộc’? Có một hiện tượng đáng chú ý là khi một nhóm người bị khinh miệt, chính họ lại có nguy cơ gia tăng lòng phân biệt chủng tộc đối với các nhóm thấp kém hơn, như một cách tự nâng mình lên để giải toả sự ẩn ức. Nhưng nhìn chung, có thể nói nguyên nhân chính yếu khiến người ta dễ khinh thường người khác hay dân tộc khác là vì họ cho rằng mình thông mình hơn, tài giỏi hơn, dân tộc mình tiến bộ hơn, văn minh hơn.

Chủng tộc la gì

Nhưng liệu thật sự có phải có những dân tộc thông minh thượng đẳng bên cạnh những dân tộc thấp kém trí tuệ? Có lẽ những bước phát triển của công nghệ đã khiến người ta loá mắt, và sự giải thích sai lầm trong quá khứ của thuyết tiến hoá và ngành di truyền học đã gây ra một tâm thức chung rằng những dân tộc nào còn sơ khai về khoa học và công nghệ chính là những dân tộc có gen di truyền kém cỏi hơn về trí tuệ. Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử nhân loại ở tầm mức đủ xa và đủ rộng, đến cả trước thời gian xuất hiện chữ viết (cách nay tầm 5000 năm), chắc hẳn chúng ta sẽ có quan niệm khác. Như nhà nghiên cứu nổi tiếng Jared Diamond đã chỉ ra, không hề có bất cứ một bằng chứng nào cho thấy có sự khác biệt về khả năng trí tuệ ở tầm mức sinh học giữa các dân tộc trên thế giới. Nói cách khác, về cơ bản chẳng có dân tộc nào thông minh hơn dân tộc nào. Sự khác biệt về tiến bộ khoa học kỹ thuật không đến từ yếu tố di truyền chủng tộc, mà từ các điều kiện tự nhiên và diễn trình lịch sử, đúng như nhận xét xác đáng của Jared Diamond trong Súng, vi trùng và thép: “nguyên nhân nằm ở những ngẫu nhiên về địa lý và địa sinh học, cụ thể là sự khác biệt giữa hai lục địa [châu Âu và châu Phi] về diện tích, trục chính, chủng loại cây dại và thú hoang ở đó… Diễn trình lịch sử của mỗi dân tộc một khác, đấy là do những khác biệt giữa môi trường sống của các dân tộc, chứ không phải do những khác biệt sinh học giữa bản thân các dân tộc đó.”
Còn thế nào là văn minh, thế nào là tiến bộ? Tiêu chuẩn văn minh – tiến bộ lại do chính những người, những nước có sức mạnh về quân sự và khoa học kỹ thuật phát triển tự đặt ra. Vì vậy, thước đo căn bản của loại văn minh này chính là những bước tiến về khoa học công nghệ của một nhóm người, vốn kéo theo cấu trúc xã hội và hệ thống luật lệ để vận hành, cùng những gì tích hợp theo nó mà chúng ta có thể gọi chung là ‘văn hoá’. Chắc hẳn rằng cái hệ thống được xây đắp qua bao nhiêu thế kỷ đó có nhiều giá trị xứng đáng được gọi là văn minh. Nhưng liệu rằng những giá trị khác ngoài nó không được gọi là văn minh ư? Nói cho cùng, thước đo cho trí tuệ văn minh và khôn ngoan đích thật của con người phải thể hiện ở ‘chất lượng cuộc sống’, qua những yếu tố căn bản: hiểu biết và hài hoà với thiên nhiên, tương quan tốt lành với tha nhân, phát triển tính tự do và lòng thiện tâm (hay đời sống thiêng liêng nói chung). Xét trên nền tảng này, liệu chúng ta có gì hơn khi so sánh với những sắc dân sơ khai về mặt công nghệ, với những nhóm người có đời sống còn mang tính ‘săn bắt hái lượm’ và có cấu trúc xã hội kiểu bộ lạc? Liệu ta còn dám lớn tiếng tự khen mình là ‘văn minh’, khi nhìn lại sự lệ thuộc của mình vào cấu trúc xã hội hiện đại, vào những lối sống bị kiểm soát bởi công nghệ, những tội ác giết hại giữa con người với nhau, và một môi trường bị huỷ hoại?

Nhìn Về Hướng Giải Quyết

Trước cuộc khủng hoảng này, nhiều cá nhân và tổ chức khắp nơi trên thế giới đang kêu gọi tinh thần hoà giải. Nhưng phải bắt đầu từ đâu và phải đi tới đâu? Hiện tại, người ta đang bắt đầu bằng biểu tình. Âu đó cũng là một cách tốt, vì nước Mỹ vốn được hình thành và phát triển từ các cuộc biểu tình và đấu tranh, dù nó thường có nguy cơ kèm theo một số hình thức cực đoan nhất định.
Giáo dục và thăng tiến công bình xã hội là một giải pháp tốt lành khác. Việc gia tăng sự hiểu biết, nhất là về lịch sử nhân loại và các loại hình thái xã hội, sẽ phần nào thu hẹp những định kiến hẹp hòi và sai lầm. Còn khi các cơ cấu bất công được giảm thiểu, con người sẽ có điều kiện để phát triển một cách đồng đều và cân bằng hơn.

Chủng tộc la gì

Tuy nhiên, chắc chắn các giải pháp trên không bao giờ giải quyết rốt ráo được vấn đề. Có thể chúng giúp giảm thiểu phần nào não trạng phân biệt đối xử, nhưng thường thì chúng chỉ giảm thiểu ở biểu hiện bề mặt, hoặc biến thành một số hình thức nguỵ tạo tinh vi nào đó, thậm chí có thể mang tấm mặt nạ là ‘hành xử nhân văn’, nhưng bản chất không thay đổi nhiều. Lý do là vì căn bản của não trạng phân biệt chủng tộc không nằm ở cấu trúc xã hội, mà là ở thâm tâm con người. Nó là vấn đề của con người, của cái tôi.
Xét một cách sâu hơn nữa, gốc gác của não trạng đó chính là thứ tư duy tự lấy mình làm quy chuẩn cho mọi giá trị. Nói cách khác, đó là kiểu não trạng tự đặt mình thay cho vị trí của Thượng Đế, hay tự tôn thờ bản thân. Quả vậy, nếu thật lòng có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta phải thực sự nghiệm thấy sự bình đẳng của mỗi nhân vị, bởi tất cả đều được tạo dựng và mang hình ảnh của Người; vì thế, ở mức nào đó, có thể nói rằng đối diện với một con người là ta đang đối diện với Thiên Chúa. Lòng tin cũng phải thể hiện ở tâm niệm rằng thước đo của mọi giá trị không phải đến từ phạm vi của bản thân, mà từ phạm vi vượt trên mình. Ngoài ra, nếu không tự quy vào mình, chúng ta sẽ có tâm trí đủ rộng mở để thấy giá trị của những khác biệt, để hiểu rằng chính điều đó làm nên vẻ đẹp và sự phong phú của gia đình nhân loại.

Chủng tộc la gì

Vì vậy, bên cạnh các giải pháp nói trên, thiết tưởng chúng ta cần chú trọng thêm hai giải pháp sau đây:

Thứ nhất, làm sao giúp nhau ý thức được rằng chúng ta đang là những thành phần của một xã hội mang cấu trúc và lịch sử của tội lỗi, của bất công. Ý thức này không chỉ đến từ những bài học lịch sử, mà còn phải từ các hoạt động dấn thân cho tha nhân, nhất là cho người nghèo và người bị gạt bên lề xã hội. Có như thế thì con mắt và trái tim của mỗi người mới được soi rọi để thấy rằng chẳng có gì đáng tự hào khi những ‘tiến bộ’, những thành công của mình hay của dân tộc mình thực ra là kết quả của một diễn trình lịch sử hà hiếp, cướp bóc và chinh phạt; chẳng có gì đáng kiêu ngạo khi chúng ta là hậu duệ của những kẻ giết người và áp bức tha nhân.
Thứ hai, làm sao giúp nhau thấy được điều ‘linh thiêng’ trong mỗi người. Nghĩa là phải nhấn mạnh đến giá trị tôn giáo nội tại của bản chất con người. Ví dụ, với Ki-tô giáo, giá trị đó là ‘hình ảnh của Thiên Chúa’, hay với Phật giáo là ‘Phật tính’. Vì vậy, thiết tưởng phải cổ võ nhau suy nghĩ, cảm nghiệm và thực hành những khía cạnh tinh thần thâm sâu nơi mỗi người, như tiếng nói lương tâm, lòng yêu mến sự thiên, vv.

Cộng gộp hai điều đó, mỗi người chúng ta sẽ thấy mình được mời gọi để xin lỗi nhau, tha thứ cho nhau, và cho nhau một cơ hội bắt đầu lại. Đó là bước đi hoà giải đích thực, và là cách chúng ta để cho mình được giải thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của thói phân biệt đối xử, vốn là tên gọi khác của thứ não trạng loại trừ Thiên Chúa.