Chữ số A rập là phát minh của cư dân quốc gia cổ đại nào

Giải bài tập 4 trang 19 SGK Lịch sử 10

Đề bài

Cư dân phương Đông thời cổ đại đã có những đóng góp gì về mặt văn hóa cho nhân loại?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 17, 18 để trả lời.

Lời giải chi tiết

Những đóng góp về mặt văn hóa của cư dân phương Đông cổ đại:

* Lịch pháp và Thiên văn học

- Sáng tạo ra lịch, gọi là nông lịch. Một năm có 365 ngày được chia thành 12 tháng.

=> Có tác dụng lớn đối với sản xuất nông nghiệp.

* Chữ viết

- Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Ban đầu là chữ tượng hình, sau đó là chữ tượng ý, tượng thanh.

=> Đây là phát minh quan trọng giúp chúng ta hiểu phần nào về lịch sử thế giới cổ đại.

* Toán học

- Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản.

- Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi bằng 3,16; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v...

- Người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu.

- Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên.

=> Những thành tựu trên là cơ sở để sau này ra đời những phát minh vĩ đại về toán học trên thế giới.

* Kiến trúc

- Để lại những di tích đồ sộ cho nhân loại sau này như: Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Ba-bi-lon ở Lưỡng Hà,...

Loigiaihay.com

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 10 - Xem ngay

08:03 PM - 23/05/2020 2850

Vào khoảng năm 500 TCN – 500 CN, khi văn hóa Bà La Môn ra đời và phát triển, toán học đã luôn đóng vai trò dẫn đầu tại khu vực Punjab thuộc Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ.

Về phương diện đơn giản hoá chữ số, nhà thiên văn học Al-Khwarizmi đã có đột phá mới: Ông đem chữ số ghi tạc trong các ô vuông, nếu như trong ô thứ nhất có một ký hiệu, ví dụ như là một điểm đại diện cho số một, trong ô vuông thứ hai cũng là điểm như vậy thì biểu thị 10, mà trong ô thứ 3 lại điểm nữa thì biểu thị 100. Như vậy, chúng không chỉ là ký hiệu chữ số, mà vị trí thứ tự của chúng cũng có ý nghĩa quan trọng. Về sau, học giả Ấn Độ còn tạo ra ký hiệu “0”. Có thể nói thế này, những ký hiệu đó và phương pháp biểu thị là nguồn gốc của chữ số Ả Rập ngày nay. Nói cách khác, người Ấn Độ mới là người phát minh chữ số Ả Rập.

Nguyên mẫu chữ số Ấn Độ lúc ban đầu

Như vậy chữ số Ả Rập là do người Ấn Độ phát minh, nhưng tại sao không gọi là chữ số Ấn Độ đây?

Khoảng thế kỷ 3 TCN, người Ấn Độ cổ đại rốt cục đã sáng tạo hoàn thiện ký hiệu chữ số từ 1 đến 9, nhưng lúc này vẫn chưa có số “0”. Số “0” xuất hiện vào Vương triều Gupta Ấn Độ sau hơn 1000 năm phát minh ký hiệu chữ số từ 1 đến 9. Cũng có giả thuyết rằng ký tự 0 được phát minh ra vào thế kỷ đầu tiên, khi triết học của Phật giáo về shunyata [Không tính] đang thịnh hành. Khi mới xuất hiện, nó còn không phải vòng tròn, mà là dùng một điểm để biểu thị.

Bởi vì chữ số Ấn Độ đơn giản tiện lợi, nên người Ả Rập rất nhanh liền sử dụng nó rộng rãi, lại còn truyền chúng đến Châu Âu. So với chữ số La Mã dài dòng phức tạp, cách ghi chép chữ số này có tính ưu việt rất lớn, vì vậy nó được phổ biến rộng khắp châu Âu. Năm 1202, Italia xuất bản cuốn sách “The Book of Calculation” [Sách tính toán] của Fibonacci, giới thiệu hệ thống và cách sử dụng chữ số Ấn Độ, ký hiệu chữ số mới này chính thức được công nhận tại Châu Âu. Bởi vì người Ả Rập đem chữ số Ấn Độ đến đấy nên người châu Âu vẫn luôn gọi chúng là “chữ số Ả Rập”. Trong khi người Ả Rập gọi hệ chữ số này là “chữ số Ấn Độ” [أرقام هندية, arqam hindiyyah].

Nói cách khác chữ số Ả Rập bắt nguồn từ Ấn Độ, nhưng lại do những người người Ả Rập truyền khắp tứ phương, điều này chính là nguyên nhân vì sao sau này mọi người hiểu lầm chữ số Ả Rập do người Ả Rập phát minh. Vì vậy, người đời sau thường gọi là “chữ số Ả Rập”.

BKT

Chữ số Ả Rập kể cả số 0 được dùng ngày nay là thành tựu của ai, ai phát minh ra số 0 và chữ số Ả Rập, những điều thú vị về chữ số Ả Rập wowhay.com chia sẻ cùng bạn.

Chữ số Ả Rập kể cả số 0 được dùng ngày nay là thành tựu của người Ấn Độ cổ đại.


Advertisement

Chữ số Ả Rập là 10 chữ số từ 0 đến 9 tạo thành nền tảng của toán học phương Tây. Bất chấp tên gọi của chúng, các số Ả Rập xuất phát từ một hệ thống chữ số do các nhà toán học Ấn Độ cổ đại phát triển. Người Ba Tư và các nhà toán học Ả Rập ở Ấn Độ đã sử dụng các chữ số một cách rộng rãi, và cuối cùng chúng được người Ả Rập áp dụng ở các vùng xa hơn ở phía tây trước khi được đưa vào châu Âu.

Lịch sử ban đầu

Chín chữ số được sử dụng ngày nay đã phát triển từ chữ số Brahmi, một hệ thống chữ số bản địa của người da đỏ từ thế kỷ thứ ba trước Công nguyên trên các bia ký Phật giáo trong khoảng thời gian đó cho thấy việc sử dụng các biểu tượng tương ứng với các số một, bốn và sáu, wowhay.com chia sẻ cùng bạn.

Vào giữa thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, các nhà toán học Babylon đã phát triển một hệ thống chữ số với 60 làm cơ sở của nó. Phải đến thế kỷ thứ chín sau Công nguyên, số 0 mới xuất hiện trong các bản khắc học thuật. T

uy nhiên, bằng chứng khảo cổ học được khai quật ở miền trung Ấn Độ và Iran cho thấy việc sử dụng tất cả chín chữ số từ thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên.


Advertisement

Giữa những năm 825 và 830, nhà toán học Ba Tư Al-Khwarizmi và nhà toán học Ả Rập Al-Kindi mỗi người đã viết những cuốn sách riêng biệt về các nguyên tắc sử dụng chữ số Ả Rập.

Những cuốn sách này đã dẫn đến sự phổ biến của các con số vào Trung Đông và các vùng của phương Tây. Vào thế kỷ thứ 10, các học giả Trung Đông đã sử dụng các chữ số để phát triển các phân số và tỷ lệ phần trăm.

Cuối cùng thế kỷ đó, một nhà toán học tên là Sind ibn Ali đã giới thiệu dấu phẩy thập phân. Với điều này, một cách viết số mới được gọi là “sand-table.” Cuối cùng, các chữ số trên bàn cát đã trở thành hình dạng của những con số viết được sử dụng ngày nay, wowhay.com chia sẻ cùng bạn.

Mở rộng Châu Âu

Đề cập đầu tiên về các số Ả Rập ở phương Tây được tìm thấy trong “Codex Vigilanus,” một tài liệu lịch sử của Hispania xuất bản năm 976. Giáo hoàng Sylvester II bắt đầu truyền bá kiến ​​thức về các chữ số Ả Rập khắp châu Âu bắt đầu từ những năm 980.

Khi còn là sinh viên, Sylvester đã nghiên cứu một dạng toán học và yêu cầu các học giả người Ý và Algeria dịch một số văn bản toán học trước đó sang các ngôn ngữ châu Âu thông dụng. Điều này đã được hoàn thành đầy đủ hơn vào năm 1202 với một cuốn sách của Leonardo of Pisa có tên “Liber Abaci.”

Sự chấp nhận cuối cùng

Sự chấp nhận các chữ số Ả Rập ở châu Âu đã bắt đầu từ sự phát minh ra máy in ấn vào thế kỷ 15. Các sự kiện lớn khác ở Anh đã giúp nâng cao nhận thức về toán học.

Ví dụ, một dòng chữ trên tháp chuông của Nhà thờ Heathfield ở Sussex vào năm 1445 và một dòng chữ năm 1470 trên lăng mộ của Bá tước Huntly ở Scotland, cho thấy việc sử dụng các con số Ả Rập của giới quyền lực và giới thượng lưu. Vào giữa thế kỷ 16, chữ số Ả Rập đã được sử dụng phổ biến trên khắp châu Âu, wowhay.com chia sẻ cùng bạn.

[HNM] - Hệ cơ số 10 chúng ta đang sử dụng ra đời từ rất lâu, khoảng 5500 năm trước, nhưng ký tự biểu thị số 0 như hiện nay thì lại ra đời muộn nhất. Điều đó bắt nguồn từ thực tế cuộc sống là chúng ta chưa có nhu cầu sử dụng số 0. Xin đưa ra ví dụ sau: Khi mới gặp ai đó, bạn có thể hỏi thăm xã giao như nhà bạn có mấy người, lớp bạn có bao nhiêu người... Đương nhiên câu trả lời luôn là một số khác 0. Như thế nên trong hệ đếm, có quan niệm cho rằng cần bắt đầu đếm từ số 1 rồi đến 2, 3,... Theo Giáo sư toán học Lam Lay Yong của Đại học Quốc gia Singapore thì người Trung Quốc đã biết sử dụng con số để đếm từ khoảng năm 475 trước Công nguyên thông qua phát hiện việc sử dụng các bó que bằng tre để làm phép tính. Theo ông, hệ thống chữ số quen thuộc gồm từ số 1 đến số 9, còn được gọi là hệ thống Ả rập - Hindu, đã bắt nguồn từ các bó que được sử dụng tại Trung Quốc. Ở thời kỳ đó, các nhà buôn, học giả, các tu sĩ và các quan lại lo việc xử án đã mang theo người những bó que này, sử dụng chúng làm bộ tính, bằng cách bày lên bàn hoặc trên mặt đất. Bằng việc thay đổi vị trí của một trong 5 chiếc que, họ sẽ có được 9 con số cơ bản từ 1 đến 9. Và bằng cách sử dụng những bộ que này, người ta có thể thực hiện được các phép tính cộng, trừ, nhân và chia. Việc con người biết trừu tượng hóa các số đếm bằng các chữ số để thuận tiện trong việc ghi chép những số tự nhiên đã có từ lâu. Việc trừu tượng hóa này giống như khi ta nhỏ tuổi, được đố: mẹ cho con 2 quả táo, bà cho con thêm 3 quả táo nữa thì con có tất cả mấy quả táo? Lớn hơn, ta được học 2 + 3 = 5 mà không cần phải thêm quả táo vào phép tính. Bảo tàng Louvre ở Paris hiện lưu trữ một mẫu đá khắc thu được từ Karnak, xác định niên đại khoảng 1500 trước Công nguyên, đã thể hiện số 276 như là 2 trăm, 7 chục và 6 đơn vị, như cách chúng ta hiểu ngày nay. Vào khoảng 700 năm trước Công nguyên, người Babylon đã dùng chữ số không trong hệ đếm, nhưng chỉ dùng chữ số không ở giữa các con số [như số 204] và chữ số không đã không được sử dụng để làm chữ số cuối cùng của một số [như số 240]. Để biểu thị số 204, người ta viết giữa số 2 và 4 một dấu móc [có thời kỳ dùng ba dấu móc], còn để biểu thị số 300, người ta viết số 3 kèm chú thích bằng lời ở dưới. Hai nền văn minh Olmec và Maya cùng lúc độc lập nhau đã biết dùng số không như là một con số riêng từ khoảng thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên. Tuy nhiên việc sử dụng này đã không được phổ biến ra ngoài vùng Trung Mỹ. Mặc dầu số không đã được dùng như một con số từ thời Trung cổ [dùng để tính ngày Phục sinh] mà khởi đầu là Dionysius Exiguus vào năm 525, nhưng nhìn chung vẫn không có một chữ số La Mã nào được dành riêng để viết số không. Thay vì vậy, thời đó người ta dùng từ Latinh là nullae, có nghĩa là "không có gì", để chỉ số không. Khái niệm số không mà chúng ta hiện nay vẫn dùng được cho là xuất phát từ nhà toán học Ấn Độ Brahmagupta vào năm 628. Nó gồm hai nghĩa là "không có gì" và "giá trị không". Ví dụ nhà bạn không nuôi mèo, biểu hiện nghĩa "không có gì". Trước tôi có 1 con mèo nhưng đã cho người khác, biểu thị nghĩa "giá trị không". Phải đến thế kỷ XIX, khi lý thuyết tập hợp của nhà toán học Peano ra đời, số 0 mới chính thức được coi là số tự nhiên và được sử dụng rộng rãi đến ngày nay. Phần dành cho các bạn học sinh Hai bạn Anh và Bình có ba chỉ số sau để so sánh: 1] Điểm tổng kết học kỳ môn toán: An được 9 điểm, Bình được 8 điểm. 2] Điểm tổng kết học kỳ môn tiếng Việt: An được 9 điểm, Bình được 10 điểm. 3] Tích cực phát biểu trên lớp: An được 10 điểm, Bình được 9 điểm. Theo bạn, ai được đánh giá cao hơn? Năm phần quà dành cho các bạn giải đúng và gửi lời giải sớm nhất.

Bài tham dự gửi về địa chỉ: Hoàng Trọng Hảo, Tạp chí Toán Tuổi thơ, tầng 5, số 361 đường Trường Chinh, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Video liên quan

Chủ Đề