Cách tình số tiền kiếp

  • Trang chủ
  • Lịch Sử Phật Giáo
  • Nghiên Cứu Phật Giáo

Cách Tính Thời Gian Theo Phật Giáo và Phật kiếp

Chùa A Di Đà | 5/6/2016 | 0 Bình luận

Kiếp sống hiện tại của chúng ta là một trong vô lượng kiếp của A-tăng-tỳ-Kiếp thứ tư, trong một chu kỳ đại kiếp.


1. Cách Tính Thời Gian Theo Phật Giáo

Trong hệ thống tính thời gian của Phật Giáo, từ kappa có nghĩa là một chu kỳ hay mộtaeon được dùng để chỉ những giai đoạn thời gian hay thời kỳ nào đó theothứ tự chu kỳ.

[Bản thân từ tiếng Anh aeon dùng để dịch từ kappa của tiếng Pali có nguồn gốc từ tiếng La-tinh, có nghĩa là một khoảng thời gian, một thời kỳ dài vô tận, hơn bất kỳ con số hay sự tưởng tượng của con người. Và xưa nay người ta quen dùng từ kiếp để tạm dịch từ này qua tiếng Việt, mặc dù kiếp ở đây không phải chỉ có nghĩa như là một kiếp người vô cùng ngắn ngủi ND].

Bốn chu kỳ thời gian được phân biệt như sau:

  • Một Đại Kiếp [maha-kappa],
  • Một A-tăng-tỳ-Kiếp [asankheyya-kappa],

  • Một Trung Kiếp [antara-kappa], và

  • Một Kiếp Sống hay vòng đời hay khoảng thời gian tuổi thọ của con người [ayu-kappa] Một Kiếp Người.

2. Đại Kiếp [Maha-kappa]

Một Đại Kiếp [maha kappa] nói chung có nghĩa là mộtchu kỳ tạo lập của thế giới. Vậy một chu kỳ tạo lập và tồn tại của một thế giới là bao nhiêu lâu?.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh II, Chương XV, Đức Phật đã dùng một ví dụ núi đá hay một số lượng hạt cải để miêu tả so sánh về định nghĩa của kiếp như sau: Giả sử có một khối núi đá cứng, chiều dài mộtyojana*, rộng mộtyojanavà cao mộtyojanavà cứ mỗi 100 năm, một người đến lau chùi bằng miếng vải lụa Kasika. Cho đến khi khối núi đá này được chùi mòn hết, thì khoảng thời gian không thể tưởng tượng đó vẫn còn ngắn hơn một đại kiếp [maha-kappa].

Hay giả sử có một khu được bao bọc bởi tường thành bằng sắt, chiều dài mộtyojana, rộng mộtyojanavà cao mộtyojanavà được đổ đầy hạt cải bên trong lên hết chiều cao tường thành và cứ 100 năm, một người đến lấy một hạt cải. Cho đến khi không còn hạt cải nào ở đó, thì khoảng thời gian không thể tưởng tượng đó cũng chưa bằng một đại kiếp [maha-kappa]. **

  • [yojanacòn được gọi là một Do-tuần [HV] = 8 dặm Anh = khoảng 12.875 Km].

** Những ví dụ trên đây là đại ý trong bài Kinh nói trên, chứ không phải trích nguyên lời kinh Đức Phật đã nói.

Vậy đã bao nhiêu đại kiếp nối tiếp nhau trong quá khứ rồi?

Theo lời Đức Phật:

Này người anh em, một đại kiếp là rất dài. Và những đại kiếp như vậy thì dài hơn một đại kiếp đã trôi qua, nhiều hơn một trăm đại kiếp đã trôi qua, dài hơn một trăm ngàn đại kiếp đã trôi qua. Điều này như thế nào? Này người anh em, sự khởi thủy của một quá trình này là không thể tính được. Thời điểm đầu tiên không thể nhìn thấy được trong quá trình trôi tiếp và trôi xa hơn nữa từ lúc chúng sinh bị che khuất trong vô minh, vì trói buộc vào dục vọng.

3. A-tăng-tỳ-Kiếp [Asankheyya-kappa]

Theo Tăng Chi Bộ Kinh [AnguttaraII, 142], có 4 giai đoạn được gọi là 4 thời kỳ hay kỷ nguyên không thể nào tính được được gọi là A-tăng-tỳ-Kiếp [Asankheyya-kappa], ngắn hơn một đại kiếp [maha-kappa].

Khoảng thời gian của một trong 4 A-tăng-tỳ-Kiếp này không thể nào tính ra được, ngay cả lấy 100.000 năm = 1lakhslàm đơn vị để tính. Vì thế nên A-tăng-tỳ-Kiếp có nghĩa là một khoảng thời gian không bao giờ đếm được

Bốn A-tăng-tỳ-Kiếp này là:

1]KỷNguyênHoại Diệt [Hoại Kiếp] là thời kỳ hủy hoại hay tiêu hủy thế giới. Trong Kinh Mặt Trời thuộc Tăng Chi Bộ Kinh [AnguttaraIV, 99], Đức Phật đã miêu tả sự hủy hoại thế giới bằngLửa, thậm chí tiêu hủy đến những cõi trời Đại Phạm Thiên. Kỷ nguyên hay A-tăng-tỳ-Kiếp [Asankheyya-kappa] bắt đầu bằng những trận mưa lớn bắt đầu dập tắt tất cả biển lửa trên thế giới nếu thế giới bị tiêu hủy bằng Lửa, hoặc bắt đầu bằng việc rút nước lũ lụt, nếu thế giới bị tiêu hủy bằng Nước; hoặc bắt đầu bằng việc ngưng bão tố nếu thế giới bị hủy diệt bằng Gió.

Việc mô tả hoàn toàn chi tiết về sự kiện thế giới bị tiêu hủy bằng những yếu tố lửa, nước, gió được ghi lại trong chương nói về những kiếp quá khứ trong quyển Con Đường Thanh Tịnh [Visuddhi Magga].

2]KỷNguyênHoàn ToànHủy Diệt [TậnHoại Kiếp] là thời kỳ tất cả hệ thống trên thế giới đãbị tiêu hủy hoàn toànhay trong tình trạng làKhông Trơ. Đây là thời kỳ bắt đầu từ lúc mà thế giới đã bị tiêu hủy bởi lửa, nước hay gió rồi cho đến khi bắt đầu những trận mưa lớn báo hiệu một chu kỳ một quá trình tiến hóa mới bắt đầu một thế giới mới.

3]Kỷ nguyên phát triển là giai doạntiến hóa. Đây là giai đoạn từ lúc có những trận mưa phát động sự tiến hóa một thế giới mới nói trên cho đến khi xuất hiện mặt trời, mặt trăng, những ngôi sao và những hành tinh.

4]Kỷ Nguyên Đã Phát Triển là giai đoạnliên tụctiếp theo. Giai đoạn này bắt đầu từ lúc xuất hiện mặt trời, mặt trăng, những ngôi sao và những hành tinh cho đến khi có những trận mưa lớn báo hiệu bắt đầu sự hủy diệt của thế giới [bằng lửa, nước hay gió].

Kiếp sống hiện tại của chúng ta là một trong vô lượng kiếp của A-tăng-tỳ-Kiếp thứ tư, trong một chu kỳ đại kiếp.

Giải Thích về Tuổi Thọ ởNhững Cảnh Giới sống tương ứng với tầng Thiền [Jhana] thứNhất, thứHai và thứ Ba.

Khi thế giới bị hủy diệt bằng 3 yếu tố [1]tam đại] lửa, nước và gió,Lửatiêu hủy thế giới cho đến 3 cõi hay cảnh giới sống của tầng Thiền định thứ Nhất [Sơ Thiền]. Theo các nhà luận giải, tuổi thọ cao nhất của những cảnh giới của Sơ Thiền là 01 A-tăng-tỳ-Kiếp [tức một kỷ nguyên không thể tính được đã giải thích ở trên], bởi vì những cảnh giới của tầng Thiền định này chỉ tồn tại trong một kỷ nguyên đó là Kỷ Nguyên Đã Phát Triển, tức Kỷ Nguyên hay A-tăng-tỳ-Kiếp thứ tư ở trên.

Sau khi bị tiêu hủy 7 lần liên tục bằng lửa, đến đợt thứ 8, thế 2] giới sẽ bị tiêu hủy bằngNước, lúc đó sự tiêu hủy sẽ đến 3 cảnh giới hay 3 cõi sống tương ứng với tàng Thiền định thứ Hai [Nhị ThiềnF]. Vì vậy, tuổi thọ dài nhất ở những cảnh giới này là 8 đại kiếp.

Sau khi bị tiêu hủy bằng Lửa qua 7 chu kỳ và 1 chu kỳ bằng 3] nước, thế giới lại bị tiêu hủy bằngGióvào chu kỳ thứ 64, lúc đó sự tiêu hủy sẽ đến tận cảnh giới hay cõi sống tương ứng với tàng Thiền định thứ Ba [Tam Thiền]. Vì vậy, tuổi thọ cao nhất ở cảnh giới này là 64 đại kiếp.

Nguyên Nhân Hoại Diệt & Khai Triển lại Thế Giới?

Trong quyển Cẩm Nang Về Trật Tự Vũ Trụ [Manual of Cosmic Order], Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw có viết rằng:

Không có một khởi thủy rõ ràng hay một kết thúc rõ ràng được biết đến, thế giới hay vũ trụ vật lý liên tục như vậy dù những chủ nhân thế giới hay những đấng siêu nhiên[issara]có xuất hiện hay không. Không bất kỳ dạng siêu nhiên nào, thậm chí một trăm, thậm chí một ngàn, thậm chí một trăm ngàn đấng như vậy cũng không thể nào làm ra, sáng tạo ra hay giải tán[thế giới, vũ trụ đó]. Bằngquy luật của Lửa[utu niyama], bằngquy luật nhân duyên tự nhiên[dhamma niyama], trật tự của vũ trụ vật lý này được duy trì như vậy.

4. Trung Kiếp [Antara-kappa]

Trong A-tăng-tỳ-Kiếp thứ tư hay Kỷ nguyên Đã Phát Triển, vòng đời hay tuổi thọ của con người có tăng hay giảm tùy thuộc đức hạnh

hay mức độ luân lý của loài người. Nếu đạo đức của con người đang phát huy, thì tuổi thọ của con người sẽ tăng lên đến mức siêu thọ80.000 năm, đó làĐỉnh Cao của ĐứcHạnh loài người. Nếu mức độ đạo đức sa sút, tuổi thọ loài người chỉ còn10 năm, đó làtuổi thọ thấp nhất của giống loài người.

Để giảng giải rộng thêm vấn đề này, các thầy sẽ trình bày một cách chi tiết bằng những ghi chép trong Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hồng [Cakkavati-Sihananda Sutta] thuộc Trường Bộ Kinh [Digha Nikaya].

Khoảng thời gian của một chu kỳ trong đó tuổi thọ của loài người được tăng từ 10 năm đến siêu thọ 80.000 năm và rồi giảm từ siêu thọ xuống còn 10 năm trở lại thì được gọi là một chu kỳ Trung Kiếp [antara-kappa] nằm trong A-tăng-tỳ-Kiếp Đã Phát Triển thứ tư nói trên.

[Như vậy tuổi thọ trung bình trong Trung Kiếp này của chúng ta hiện nay [xem bên dưới] khoảng 100 năm là thuộc giai đoạn đang giảm xuống từ siêu thọ đến 10 năm. Hãy tưởng tượng sự sa sút về đức hạnh của con người trong thời mạt pháp này! ND].

Một Trung Kiếp Kéo Dài Bao lâu?

Trong quyển Cẩm Nang Về Trật Tự Vũ Trụ [Manual of Cosmic Order], Đại trưởng lão Mahathera Ledi Sayadaw cũng đã dùng lại ví dụ về số lượng cát sông Hằng để so sánh như sau:

Nếu một người phải đếm số năm của một Trung Kiếp bằng số hạt cát, bốc đếm từng hạt cát của tất cả các chi lưu của sông Hằng, thì con số hạt cát sông Hằng có lẽ hết trước khi số năm của một Trung Kiếp được đếm hết. [Tổng số lượng hạt cát ở sông Hằng cũng còn ít hơn tổng số năm của một Trung Kiếp -ND].

Sau khi trải qua hoàn thành 64 kỷ nguyên, thìKỷ Nguyên Đã Phát Triểnđến sau cùng. Vì hoàn toàn không có sự sống hay chúng sinh nào sống trong 3 kỷ nguyên [A-tăng-tỳ-Kiếp] kia, nên 3 kỷ nguyên đó không thể được suy ra là một Trung Kiếp theo cách diễn giải trên đây. Nhưng tất cả 4 kỷ nguyên hay A-tăng-tỳ-Kiếp đó có độ dài như nhau và trong tất cả Luận Giảng,mỗi A-tăng-tỳ-Kiếp[Asankheyya-kappa: tức một trong 4 kỷ nguyên Không Thể Tính Được] được chia đều thành64 kỷ nguyên Trung Kiếp[antara-kappa].

Trong một số Kinh Điển Pali, một A-tăng-tỳ-Kiếp được ghi lại là baogồm 64 hoặc 20 Trung Kiếp. Điều này là bởi vì có một kỷ nguyên khác được cho là một Trung Kiếp, đó là vòng đời hay tuổi thọ ở cảnh giới địa ngục A-Tỳ [Avici], được cho là bằng đến1/80của một Đại Kiếp hay bằng 1/20 một A-tăng-tỳ-Kiếp. Bằng cách tính này, người xưa đã cho rằng một A-tăng-tỳ-Kiếp thì bằng tương đương với 64 Trung Kiếp của cảnh giới con người hay bằng tương đương với 20 Trung Kiếp của cảnh giới Địa Ngục A-Tỳ.

5. KiếpNgười [Ayu Kappa]

Trong tiếng Pali, chữ ayu-kappa theo nghĩa gốc có nghĩa là vòng đời haytuổi thọ. Nếu vòng đời là 100 năm, thì tuổi thọ [ayu kappa] là một thế kỷ. Nếu vòng đời là 1.000 năm, thì tuổi thọ [ayu kappa] là một thiên niên kỷ.

Khi Đức Phật dạy cho ngài Ananda rằng: Này Ananda, ta đã phát triển được bốn năng lực thần thông[Tứ Thần Túc]. Vì vậy, nếu ta muốn sống thêm một kiếp[kappa], thì chữkappacó nghĩa là một kiếp người hay một vòng đời của con người [ayu-kappa], đó là 100 năm vào thời Đức Phật tại thế. Đây là cách diễn dịch của các Luận Giảng về Kinh Đại Bát-Niết-bàn [Mahaparinibbana Sutta].

6. Phật Kiếp [Buddha Kappa]

Phật Kiếp là những chu kỳ thế giới hay những Đại Kiếp có những vị Phật xuất hiện. Một đại kiếp không có xuất hiện vị Phật nào thì được gọi là Kiếp Không [suñña kappa].

Một kiếp nào có một hay nhiều vị Phật xuất hiện thì được gọi là một Phật Kiếp [Buddhakappa]. Kiếp [kappa] ở đây nếu đứng riêng một mình không có tính từ hay danh từ ghép đứng trước, thì có nghĩa là một Đại Kiếp [Maha-kappa].

Có 4 loại chu kỳ Phật Kiếp, đó là:

Sara-kappa : Kiếp có một vị Phật xuất hiện.

Manda-kappa : Kiếp có hai vị Phật xuất hiện.

Vara-kappa : Kiếp có ba vị Phật xuất hiện.

Saramanda-kappa : Kiếp có bốn vị Phật xuất hiện.

Bhadda-kappa : Kiếp có năm vị Phật xuất hiện.

Đại Kiếp hiện tại [hay thế giới hiện tại] là một kiếp lành, nhiều may mắn, tiếng Pali là: Bhadda kappa, vì có đến 5 vị Phật Toàn Giác xuất hiện. Bốn vị Phật đã xuất hiện trước, đó là:

1] Đức Phật Kakusandha [Câu-Lưu-Tôn],

2] Konagamana [Câu-Na-Hàm],

3] Kassapa [Ca-Diếp]

4] Đức Phật Cồ-Đàm [Gotama] hay Phật Thích Ca Mâu-Ni [Sakyamuni].

5] Đức Phật thứ năm là Đức Phật Di Lặc [Mettaya], chưa xuất hiện trong đại kiếp này.

Khoảng thời gian giữa một vị Phật này xuất hiện và một vị Phật khác xuất hiện có thể là một đại kiếp hoặc một A-tăng-tỳ-Kiếp

Chữ Asankheyya [A-tăng-tỳ] có nghĩa gốc là không thể đếm được, không thể tính được và có nghĩa đó trong trường hợp nói về Phật Kiếp này.

Học giả Childers trong quyển Tự Điển Pali đã định nghĩa A-tăng-tỳ [asankheyya] là một con số lớn nhất, bằng10140 tức bằng 1 theo sau 140 con số 0!.

Một con số A-tăng-tỳ [Đại] Kiếp [asankheyya kappas] =10140 kiếp là một con số vô cùng lớn về thời gian, thách thức cả trí tưởng tượng!.

Chúng ta không thể nhầm lẫn với một kỷ nguyên hay một kiếp được gọi là A-tăng-tỳ-Kiếp được định nghĩa trong phần số3. Ở trên, một A-tăng-tỳ-Kiếp [asankheyya-kappa], kỷ nguyên đó chỉ bằng ¼ một Đại Kiếp. Còn trong phần này đang nói về nghĩa của chữ A-tăng-tỳ, có nghĩa là: không đếm được, có nghĩa bằng =10140. Và khi nói con số một A-tăng-tỳ Đại Kiếp [asankheyya-kappa] có nghĩa là tương đương bằng =10140 Đại Kiếp, đó là khoảng thời gian vô tận giữa những chu kỳ thế giới có những vị Phật xuất hiện

Đức Phật Thích Ca của chúng ta đã nhận được xác nhận hay thọ ký vào thời kiếp Người còn là tu sĩ Sumedha, Người đã có đại nguyện [trở thành Đức Phật Toàn Giác] dưới chân Đức Phật Nhiên Đăng [Dipankara Buddha] cách đây 4 A-tăng-tỳ Đại Kiếp và một trăm ngàn đại kiếp [4asankheyyas kappasvà 100.000kappas]Từ đó đến nay, đã có 11 Phật Kiếp [Buddhakappas], Phật Kiếp hiện tại là thứ 11.

7. Hai Mươi Bốn Vị Phật Trước Đức Phật Thích Ca

Chúng ta không nên có suy luận rằng không có Phật Kiếp nào trước thời Đức Phật Nhiên Đăng [Dipankara Buddha], hoặc sẽ không còn những vị Phật xuất hiện sau đại kiếp này. Số lượng những vị Phật xuất hiện, đến và đi trong quá khứ hoặc những vị Phật xuất hiện rồi đi trong tương lai, là không thể nào đếm được, không thể nào nghĩ bàn được, nhiều như cát sông Hằng.

Tên của 24 vị Phật xuất hiện trước thời Đức Phật Thích Ca kể từ sau thời Đức Phật Nhiên Đăng [Dipankara] và những khoảng cách thời gian giữa những vị Phật đó được ghi chép lại như sau:

Cách đây 4 A-tăng-tỳ Đại Kiếp [asankheyyas kappas] + 100.000 Đại Kiếp [kappas]:

Đức Phật 1]Tanhankara

Đức Phật 2]Medhankara

Đức Phật 3]Saranankara

Đức Phật 4]Dipankara[Nhiên Đăng].

Cách đây 3 A-tăng-tỳ Đại Kiếp [asankheyyas kappas] + 100.000 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtKondanna

Cách đây 2 A-tăng-tỳ Đại Kiếp [asankheyyas kappas] + 100.000 Đại Kiếp [kappas]: Đức Phật 1]Mangala

Đức Phật 2]Sumana

Đức Phật 3]Revata

Đức Phật 4]Sobhita

Cách đây 1 A-tăng-tỳ Đại Kiếp [asankheyyas kappas] + 100.000 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtAnomadassin

2] Đức PhậtPaduma

3] Đức PhậtNarada

Cách đây 100.000 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtPadumuttara

Cách đây 30.000 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtSumedha

2] Đức PhậtSujata

Cách đây 18.000 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtPiyadassin

2] Đức PhậtAtthadassin

3] Đức PhậtDhammadassin

Cách đây 94 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức Phật Siddhattha

Cách đây 92 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtTissa

2] Đức PhậtPhussa

Cách đây 91 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtVipassin

Cách đây 31 Đại Kiếp [kappas]:

1] Đức PhậtSikhin

2] Đức PhậtVessabhu

Trong Đại Kiếp hiện tại:

1] Đức PhậtKakusandha [Câu-Lưu-Tôn]

2] Đức PhậtKonagamana [Câu-Na-Hàm]

3] Đức PhậtKassapa [Ca Diếp]

4] Đức PhậtThích Ca Cồ-đàm

8. Tám Phẩm Chất CủaMột VịBồ-Tát[Bodhisatta]: Vị Phật Tương Lai

Đây là những đặc điểm hay phẩm chất của một vịBồ-tát, trước khi thành một vị Phật Toàn Giác, trong giai đoạn tu hành và phát triển của mộtBồ-tát, thậm chí chỉ sau khi mới nhận được lời thọ ký hay tiên tri sẽ trở thành một vị Phật tương lai, cho đến khi nào được phú cho những phẩm chất và đặc điểm sau đây [mới được gọi là mộtBồ-tát:

1. Phải là một con người.[i]

2. Phải là một nam nhân.[ii]

3. Phải hoàn thiện tất cả những điều kiện cần thiết, chẳng hạn [iii] như phải hoàn thành vượt qua những Điều Hoàn Thiện [Ba-la-mật] cần thiết để chứng đắc đạo quả A-la-hán ngay trong kiếp này.

4. Phải gặp được một vị Phật.[iv]

5. Phải là một tu sĩ tin theo học thuyết Quy Luật Nghiệp Báo [v] [Kammavadi ascetic] hoặc phải là một Tỳ Kheo trong tăng đoàn vào thời có một vị Phật.

6. Phải có năng lực chứng đạt những tàng Thiền định [[vi] jhana].

7. Hành động công đức, chẳng hạn như có thể chết thay hay để [vii] bảo vệ cho một vị Phật.

8. Phải có những có ý nguyện [[viii] chanda] rất mạnh mẽ để thực hiện mục tiêu, dù biết rằng mình có thể phải chịu nhiều kiếp tái sinh, ngay cả vào những cảnh giới xấu.

Chỉ có những ai được phú đầy đủ 8 phẩm chất trên đây thì mới đủ phẩm cách nhận đượcsự bảo đảmsẽ trở thành một vị Phật tương lai [Niyata Vivaranam]. Ngay cả khi còn là mộtBồ-tát, thì cũng rất hy hữu để được tiên tri trở thành một vị Phật tương lai. Nói về quả vị Phật thì nói về điều gì?, để giác ngộ được một quả vị Phật phải mất ít nhất 4 A-tăng-tỳ-Kiếp [asankheyya] và 100.000 ngàn kiếp [lakh of kappas] để thực hành tất cả mọi Điều Hoàn Thiện [Ba-la-mật] đến mức cao nhất, bất chấp mạng sống của mình!.

Tại SaoMột Vị Bồ-Tát Có TâmNguyện Trở ThànhMột Vị Phật, trong khi một Bồ-Tát có thể dễ dàng chứng đạt Giác Ngộ cho mình?

Đó chính là vì Lòng Bi, Lòng Đại Bi [Mahakaruna] dành cho tất cả chúng sinh đang ngập chìm trong biển luân hồi.

Là một người biết được mãnh lực của mình, thì qua sông [đáo bỉ ngạn ND] một mình để mà làm gì?. Nếu chứng đạt được Toàn Giác [là một vị Phật], Ta có thể giúp thế gian cùng với chư thiên thần cùng qua sông.

Nguồn tin: Giáo trình Phật học [Bro. Chan Khoon San Lê Kim Kha dịch Việt]

Bài Liên Quan:

  • Chùm thơ về nhà giáo 20.11
  • Hồ Xuân Hương Chân Dung và Tác Phẩm
  • Phát động cuộc thi trắc nghiệm 'Hành hương về miền đất Phật'
  • Năm 2021 - Ám ảnh, đau thương và mất mát trong cuộc chiến với các biến thể COVID-19
  • Thư mời tham dự Đại hội Hội Đồng Hoằng Pháp I/2021
  • Người đàn bà điên

các bài khác

  • Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông [P.1] 18/12/2017
  • Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu 3/9/2017
  • Thiền là cốt lõi 'thường trụ' của Phật giáo 8/12/2016
  • Nguyên nhân nào làm cho các triều vua đầu đời Trần hưng thịnh? 26/11/2016
  • Niên đại xuất gia, thành đạo Đức Phật Thích Ca trong kinh Phật Bản Hạnh Tập 24/1/2015
  • Phân biệt hoa Sala, hoa Vô Ưu và hoa Kỳ Lân 31/10/2014
  • Hạt Của Chúa Và Chủng Tử Phật 28/9/2014
  • Khương Tăng Hội Sáng Tổ Thiền Việt Nam 27/9/2014
  • Tinh thần Phật giáo thống nhất: THỐNG HỢP TRONG THANH TỊNH 26/9/2014
  • ĐẠO PHẬT HIỆN ĐẠI NHƯ THẾ NÀO TRƯỚC MẮT NGƯỜI TÂY PHƯƠNG? 26/9/2014
CẢM NHẬN CỦA BẠN

Gửi cảm nhận - Vui lòng điền đầy đủ thông tin

Họ tên *
Email *
Nội dung *
Mã bảo vệ *

Video liên quan

Chủ Đề