Các biện pháp dự phòng phản ứng có hại của thuốc
Triệu chứng và dấu hiệu có thể xuất hiện ngay sau liều đầu tiên hoặc chỉ sau khi dùng thuốc kéo dài. Các triệu chứng và dấu hiệu có thể hiển nhiên là do sử dụng thuốc hoặc quá khó để xác định là có liên quan đến thuốc. Ở người cao tuổi, ADR khó xác định có thể gây suy giảm chức năng, thay đổi tình trạng tinh thần, không thể hoạt động, ăn mất ngon, lú lẫn, và trầm cảm.
ADR do dị ứng thường xảy ra ngay sau khi dùng thuốc nhưng thường không xảy ra sau liều thứ nhất; thông thường, chúng xảy ra ở các liều tiếp theo. Các triệu chứng bao gồm ngứa, phát ban, phun trào thuốc, phù phổi trên hoặc dưới có khó thở và hạ huyết áp.
Các ADR đặc ứng có thể gây ra hầu hết các triệu chứng hoặc dấu hiệu và thường không thể dự đoán được. Phản ứng có hại của thuốc là gì? Phản ứng có hại của thuốc (Dị ứng thuốc) có thể gặp ở tất cả các loại thuốc bao gồm cả thuốc kê đơn hay không kê đơn thậm chí các thuốc thảo dược cũng có thể gây ra các phản ứng khi sử dụng. Tổ chức Y tế thế giới - WHO định nghĩa: “ Phản ứng có hại của thuốc là phản ứng độc hại, không được định trước, xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn đoán hay chữa bệnh hoặc nhằm thay đổi một chức năng sinh lý. Định nghĩa này không bao gồm các trường hợp thất bại trị liệu, quá liều, lạm dụng thuốc, không tuân thủ và sai sót trong trị liệu ”
Phản ứng có hại của thuốc trên mỗi người là không giống nhau. - Các triệu chứng phổ biến và thường gặp là: Nổi sẩn, mề đay, hồng ban trên da; Ngứa; Sốt; Phù; Khó thở; Thở khò khè; Sổ mũi; Ngứa, chảy nước mắt. - Một số trường hợp dị ứng có thể dẫn đến tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Bạn nên đến phòng cấp cứu khi có những triệu chứng sau đây: Tim đập nhanh hoặc loạn nhịp; Cảm giác bị nghẹn ở cổ họng, gây khó thở; Lo âu hoặcchóng mặt; Bất tỉnh; Phát ban và khó thở.
- Một số triệu chứng kéo dài bao gồm: Sốt, đau khớp, phát ban, phù và buồn nôn; Thiếu máu: suy giảm các tế bào hồng cầu, gây mệt mỏi, rối loạn nhịp tim, khó thở và các triệu chứng khác; Phát ban, số lượng bạch cầu tăng cao, phù khắp người, sưng hạch bạch huyết và tái phát bệnh viêm gan; Viêm thận, có thể gây sốt, máu trong nước tiểu, phù toàn thân và các triệu chứng khác.
Thời gian xuất hiện phản ứng có hại của thuốc có thể xảy ra khi nào? (tính từ khi dùng thuốc lần cuối cho đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên) - Cấp tính: 0-60 phút (chiếm 4,3% trong tổng số ca phát hiện phản ứng có hại). -Bán cấp: 1- 24 giờ (86,5% trong tổng số ca phát hiện phản ứng có hại). -Muộn: 1 ngày - nhiều tuần (3,5% trong tổng số ca phát hiện phản ứng có hại). Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ bị phản ứng có hại của thuốc? - Đã từng bị dị ứng, ví dụ như dị ứng thức ăn. - Đã từng bị phản ứng có hại của thuốc với các thuốc trước đây. - Gia đình có người bị dị ứng thuốc. - Uống thuốc với liều lượng cao, uống lại nhiều lần hoặc uống kéo dài. - Nhiễm HIV hoặc virut Epstein-Barr. Khi nào bạn cần gặp bác sĩ? Phản ứng có hại của thuốc có thể chỉ làm xuất hiện những triệu chứng nhẹ, nhưng đôi khi triệu chứng có thể nặng và đe dọa tính mạng. Bạn nên liên hệ với bác sĩ nếu có bất kỳ dấu hiệu nào khiến bạn cảm thấy có cảm giác khó chịu: - Xuất hiện các vùng đỏ hoặc phồng rộp gây đau và lan nhanh. - Lột da, có thể lộ thịt. - Lột da nặng thấy mô cơ ở bên dưới. - Cảm giác không thoải mái. - Sốt. - Xuất hiện phát ban hoặc phồng rộp ở gần mắt, miệng và bộ phận sinh dục. Những thói quen sinh hoạt nào giúp bạn hạn chế phản ứng có hại của thuốc thuốc? Bạn sẽ có thể kiểm soát phản ứng có hại của thuốc nếu áp dụng các biện pháp sau: - Tránh các chất gây dị ứng. - Thông báo cho bác sĩ biết loại thuốc mà bạn từng bị phản ứng khi đi khám bệnh. - Thận trọng với việc côn trùng châm chích, vì chúng có thể gây dị ứng.
- Đọc kỹ nhãn của tất cả các loại thực phẩm bạn mua và ăn.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn SVD. Tăng Vân Hải, Phan Dương Liên Phương, Huỳnh Xuân Thảo, Nguyễn Đình Đạm Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction-ADR) xảy ra gần như hàng ngày trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe và có thể gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, dẫn đến bệnh tật và tử vong. Phản ứng có hại của thuốc được cho là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tư, cao hơn bệnh phổi, AIDS và tai nạn giao thông. Cảnh giác dược là công tác nghiên cứu các thương tổn liên quan đến thuốc và đưa ra các khuyến cáo, bao gồm việc phát hiện, đánh giá và phòng ngừa ADR. Dược sĩ đóng vai trò quan trọng trong mỗi bước của quy trình cảnh giác dược, giúp ngăn ngừa bệnh nhân trải qua các thủ tục không cần thiết hoặc dùng thuốc không chính đáng. Ngoài việc giữ gìn sự an toàn và chất lượng cuộc sống, cảnh giác dược còn tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân và các tổ chức chăm sóc sức khỏe. [1] Chương trình giám sát thuốc của tổ chức y tế thế giới đưa ra một định nghĩa về phản ứng có hại của thuốc như sau (WHO, 1972): “ Phản ứng có hại của thuốc là phản ứng độc hại, không được định trước, xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn đoán hay chữa bệnh hoặc nhằm thay đổi một chức năng sinh lý. Định nghĩa này không bao gồm các trường hợp thất bại trị liệu, quá liều, lạm dụng thuốc, không tuân thủ và sai sót trong trị liệu” Phản ứng có hại của thuốc là một trong những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ mắc bệnh , tỷ lệ tử vong , kéo dài thời gian nằm viện , giảm tuân thủ điều trị và tăng chi phí điều trị cho bệnh nhân. Vì vậy, việc giám sát phản ứng có hại của thuốc đóng vai trò quan trọng nhằm giảm thiểu những nguy cơ liên quan đến thuốc trong quá trình sử dụng thuốc của người bệnh. Phản ứng có hại của thuốc ban đầu được phân thành hai loại: A và B. ADR loại A phụ thuộc vào liều lượng sử dụng và có thể dự đoán được; chúng là sự gia tăng của các tác dụng dược lý đã biết của thuốc. ADR loại B không phổ biến và không thể đoán trước, nó không phụ thuộc vào liều lượng và chỉ ảnh hưởng một số ít người. Phản ứng quá mẫn với thuốc là một ví dụ của ADR loại B. Phản ứng loại A được gọi là phản ứng tăng cường và phản ứng loại B được gọi là phản ứng bất thường. Có thêm bốn loại phản ứng được bổ sung vào sau này, bao gồm: phản ứng mãn tính, liên quan đến cả liều lượng và thời gian (loại C), phản ứng chậm (loại D), hội chứng ngừng thuốc (loại E) và gần đây nhất, thuốc mất hiệu lực đã trở thành loại thứ sáu (loại F) Khoảng 80% ADR trong bệnh viện thuộc loại A. Các nhóm thuốc thường gây ra ADR ở người lớn là corticosteroid tuyến thượng thận, kháng sinh, thuốc chống đông máu, thuốc điều trị ung thư và thuốc ức chế miễn dịch, thuốc tim mạch, thuốc chống viêm không steroid và thuốc giảm đau nhóm opioid. Đối với trẻ em, nhóm thuốc phổ biến nhất là thuốc chống nhiễm trùng, thuốc hô hấp và vắc-xin. Bảng 1 : Phân loại ADR theo tác dụng dược lý mở rộng [1]
Phản ứng có hại của thuốc phổ biến hơn ở người lớn tuổi và nữ giới. Gần đây, một yếu tố quan trọng khác đã được xác định – Các kháng nguyên bạch cầu của người (Human Leucocyte Antigen-HLA) của từng bệnh nhân. HLA là một nhóm các gen mã hóa một nhóm protein có trên bề mặt tế bào. HLA có liên quan đến việc trình diện kháng nguyên cho hệ thống miễn dịch. Những người sở hữu một số HLA nhất định có nguy cơ mắc ADR cao hơn với các loại thuốc cụ thể. [3] Bảng 3 : Các yếu tố có liên quan tới phản ứng có hại của thuốc
Bảng 4 : 30 ADR phổ biến nhất liên quan đến 200 loại thuốc hàng đầu: [4]
Quyết định quan trọng nhất đối với tất cả các nghi ngờ phản ứng có hại của thuốc là ngừng sử dụng thuốc nghi ngờ. Ở những bệnh nhân đang sử dụng nhiều loại thuốc, quyết định ngừng thuốc phải được cân nhắc giữa nhu cầu sử dụng thuốc và khả năng gây ra tác dụng phụ quan sát được. Trong các phản ứng quá mẫn loại I hoặc phản ứng toàn thân, thuốc được lựa chọn để điều trị ADR là adrenaline, tiêm thuốc vào cơ nhanh nhất có thể. Một cách khác để đưa adrenaline vào cơ thể là tiêm tĩnh mạch, nhưng điều này chỉ được sử dụng trong các trường hợp nguy cấp, đe dọa đến tính mạng mà không đáp ứng với phương pháp tiêm vào cơ. Thuốc giãn phế quản và corticosteroid toàn thân cũng có thể được sử dụng khi điều trị các phản ứng dị ứng, nhưng không nên trì hoãn việc sử dụng adrenaline nếu cần thiết. Cần thận trọng với IV Phenergen (một loại thuốc kháng histamine) vì có thể làm kích thích tĩnh mạch.[3] Từ: Nhịp cầu dược lâm sàng
|