Anh chị hiểu như thế nào về câu thơ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Kỷ niệm 42 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước [30-4-1975 - 30-4-2017]:

Chủ Nhật, 30/04/2017, 12:30 [GMT+7]

[QBĐT] - Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm những vết thương chiến tranh cũng dần nguôi ngoai. Thế nhưng chỉ cần một câu chuyện, một cuộc gặp gỡ, một lần trở về chốn xưa..., ký ức về những cuộc chiến với bao hy sinh, mất mát nhưng rất đỗi kiêu hùng lại sống dậy. Những ngày tháng tư, câu thơ ngày cũ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” của nhà thơ Quang Dũng chợt ngân nga trong lòng với bao bộn bề cảm xúc...

Sinh ra và lớn lên sau ngày 30-4-1975 lịch sử, trong ký ức thế hệ chúng tôi, chiến tranh hiện hữu bằng hình ảnh những hố bom còn sót lại, những đứa bạn mồ côi cha, người vợ góa bụa và người mẹ đợi chờ, trông ngóng tin con. Và thi thoảng trên cánh đồng, bờ sông hay con đường bình yên đến trường, những quả bom còn sót lại đã gây ra những cái chết tức tưởi, đau thương. Vì thế, dẫu không đối mặt với chiến tranh, thì tuổi thơ tôi cùng bao bạn bè thuở ấy, chiến tranh và những vết thương do nó gây ra vẫn hiện hữu, rõ ràng và khốc liệt...

Bộ đội miền Bắc hành quân vào chiến trường miền Nam. Ảnh: Tư liệu

Tôi nhớ những ngày tháng bảy dương lịch, người làng tôi cùng nhau lên nghĩa trang thắp hương. Cảnh Dương, ngôi làng nhỏ bé của huyện Quảng Trạch, diện tích chỉ vẻn vẹn hơn 1km2 nhưng có gần 500 liệt sĩ, thương binh. Ông ngoại tôi là một trong những số đó. Năm 1948, khi mẹ tôi vừa tròn bốn tuổi, ông hy sinh ở chiến trường Lào khi vừa bước sang tuổi hai bảy.

Đến bây giờ, 70 năm đã trôi qua, phần mộ của ông vẫn ở đâu đó dưới tán rừng săng lẻ trên đất bạn Lào. Nên ở nghĩa trang quê nhà chỉ là phần “mộ gió”, như nhiều đồng đội của ông đã hy sinh và vĩnh viễn nằm lại nơi cánh rừng, dòng sông, con suối trong những ngày chiến tranh khốc liệt...

Một ngày mùa xuân năm 2017, Robert Eadie, đến từ  nước Úc, hiện là tình nguyện viên Trung tâm Nghiên cứu Kiến thức Bản địa và Phát triển tại huyện Tuyên Hoá, cùng những người bạn Việt Nam đi thăm các di tích lịch sử tại tỉnh Quảng Trị. Cột cờ giới tuyến, cầu Hiền Lương, địa đạo Vĩnh Mốc, Thành cổ Quảng Trị... là những địa chỉ họ đến thăm.

Tại Thành cổ Quảng Trị, Robert Eadie và những người bạn được nghe cô hướng dẫn viên kể về những tháng ngày khốc liệt đã diễn ra nơi mảnh đất này.“Trong 81 ngày đêm, từ ngày 28-6 đến 16-9-1972, Thành cổ Quảng Trị đã phải hứng chịu 328.000 tấn bom đạn. Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng chịu 100 quả bom, 200 quả đạn pháo.

Mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số, nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót...”. Người đàn ông ngoại quốc tỉ mỉ lắng nghe, hỏi han, ghi chép, chụp ảnh để rồi thốt lên rằng, dù đã đọc, đã nghe về cuộc chiến tranh này, thì ông cũng không thể hình dung được sự khốc liệt của nó.

Con gái tôi cũng có mặt trong chuyến đi này. Cuối ngày, khi trở về, con trầm tư kể: Con đã gặp rất nhiều ông bộ đội, họ mặc quân phục và đeo huân chương, huy chương trên áo. Khi nghe cô hướng dẫn viên nói, họ khóc rất to. Và có một ông lên đọc câu thơ "Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/Đáy sông còn đó bạn tôi nằm” rồi vừa khóc vừa nắm tay cảm ơn cô hướng dẫn viên bởi cô đã kể rất xúc động. Mẹ có biết một tấn bom là từng nào không?

Mẹ có biết chuyện những chú bộ đội còn rất trẻ, mới chỉ mười tám, mười chín tuổi, trong số đó rất nhiều người là sinh viên, hàng đêm vượt qua sông Bến Hải và hy sinh không? Khi mẹ đứng nơi Thành Cổ, nghe ông bộ đội già đọc những câu thơ đó, mẹ sẽ cảm thấy như có dòng điện chạy qua người mình...”.

Cuộc chiến khốc liệt đã lùi xa hơn bốn mươi năm bỗng chốc tái hiện sau những câu hỏi của con, cô bé mười hai tuổi sau hành trình đi thăm đất lửa Quảng Trị, trong đó có Thành Cổ mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nó rõ nét và sống động hơn bất cứ bài học lịch sử nào. Mẹ biết, đã có trên 1 triệu người lính hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, họ đã ra đi với trái tim quả cảm “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” con gái ạ. Để hôm nay, thế hệ mẹ và con được sống bình yên, được đến trường, được thực hiện những ước mơ giản dị hay vĩ đại...

Sẵn sàng lên đường bảo vệ Tổ quốc.

Và tôi kể cho con nghe câu chuyện về một người lính từng chiến đấu tại mặt trận Vị Xuyên những năm 80 của thế kỷ trước. Năm 1982, khi vừa tròn 19 tuổi, chàng thanh niên ấy lên đường nhập ngũ và được phân công làm nhiệm vụ lái xe lên chốt. “Mỗi lần xe lên chốt, tôi được gặp những gương mặt rạng rỡ vui tươi của đồng đội khi họ nhận được thư nhà, bưu phẩm và lương thực, thực phẩm từ hậu phương tiếp tế cho tiền tuyến.

Đó là những giây phút hạnh phúc của lính lái xe chúng tôi. Và trong hàng nghìn chuyến xe ấy, tôi cũng chứng kiến nhiều đồng đội hy sinh ngay trước mắt mình. Trong một lần lên chốt, một đồng đội của tôi xung phong cho xe đi trước dẫn đường đã bị thám báo địch phục kích và hy sinh. Ca bin xe anh nhuốm máu và kính xe vỡ nát!”. Khi kể câu chuyện này, nước mắt lăn dài trên gò má sạm đen của người lính từng hàng trăm lần đối mặt với cái chết nơi chiến trường khốc liệt!

Và xung quanh chúng ta, con sẽ gặp những người lính trở về từ cuộc chiến với nhiều vết thương trên thân thể. Biển quê hương vẫn chưa bình yên khi hàng ngày vẫn còn những tin tức nóng bỏng bay về. Họ, thế hệ cha anh đã cầm súng, chiến đấu, hy sinh một phần thân thể, có người mãi mãi nằm lại trong lòng biển khơi, nhưng vẫn luôn sẵn sàng động viên lớp trẻ lên đường. Như thuở xưa, họ lên đường với trái tim tuổi đôi mươi quả cảm và tràn đầy nhiệt huyết...

Chiến tranh đã lùi xa, những vết thương do nó gây ra cũng dần nguôi ngoai. Nhưng những chàng trai, cô gái năm xưa “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” ấy sẽ mãi mãi sống trong trái tim những người ở lại. Trong số họ, có những người được đón về trong lòng đất mẹ, có người mãi mãi nằm lại dưới những tán rừng mà xưa là chiến trường khốc liệt. Hay như trong câu thơ người lính già trong ngày về thăm chiến trường Quảng Trị run run đọc, rằng "Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm". Máu xương của họ đã hòa vào sông núi, để hôm nay sông núi quê hương xanh hơn, đẹp hơn và mãi trường tồn...

Ngọc Mai

Tậy Tiến là bài thơ hay nhất của đời thơ Quang Dũng và cũng là thành tựu xuất sắc của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Trong thơ Quang Dũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy trở thành bất tử cùng thời gian. Với bút pháp tài hoa và lãng mạn trong phút rung động thơ ca cứ tự nhiên trào dâng về hình ảnh người lính.

Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ và niềm tự hào đối với đoàn binh Tây Tiến, đối với con sông Mã và núi rừng miền Tây xa xôi. Đó là nỗi nhớ “chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hi sinh. Đây là đoạn thơ thứ ba trong bài Tây Tiến, đã khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hi sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.

Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời, đoàn binh Tây Tiến hiện ra giữa màu xanh cùa núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da xanh phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực nên “không mọc tóc”. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm đầu kháng chiến vốn thế. “Không mọc tóc” là hình ảnh phản ánh cái khốc liệt của chiến trường:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Nhưng, trước hết, đây là những câu thơ tả thực - thực một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt động ở những vùng núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết vì bệnh tật thì nhiều, có những con suối rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thê hiểu là xanh màu áo, xanh lá ngụy trang và xanh làn da vì thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó đã đi vào bài thơ, với giọng điệu và cách diễn tả lãng mạn của Quang Dũng đã như mang nghĩa tượng trưng, rất có khí phách.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp: “quân xanh màu lá”, “không mọc tóc” tương phản với “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân giặc phải khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Một sổ ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh “đoàn binh không tóc” và “dữ oai hùm” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh anh bộ đội chống Pháp trở nên “quái đản”. Cảm nhận thơ như vậy là vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không chỉ những anh bộ đội “lá ngụy trang reo với gió đèo” mà còn có cả những “anh vệ trọc” nổi tiếng một thời. Cho nên, hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm” vừa là một thực tế, vừa là sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn. Đoàn binh không mọc tóc là hình ảnh đoàn quân bị rụng hết tóc, hậu quả của những cơn sốt rét rừng khi phải sống ở miền “rừng thiêng nước độc”; “quân xanh màu lá” nghĩa là đoàn quân có nước da xanh như tàu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, do gian khổ và thiếu thốn; thế nhưng đoàn binh vẫn toát lên vẻ “dữ oai hùm”, nghĩa là vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh Trong hang tối mắt thần khi đã quắc/ Là khiến cho mọi vật đều im hơi [Nhớ rừng — Thế Lữ]. Đây là cách ví người hùng theo lối cổ chứ không phải làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của “đoàn binh”. Cách miêu tả chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người tráng sĩ với Hào khí Đông A. Các chiến binh “Sát Thát” đời Trần: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu [Thuật hoài]-, Tì hổ ba quân giáo gươm sáng chói [Trương Hán Siêu]. Nghĩa quân Lam Sơn xung trận trong khí thế bình Ngô: Sĩ tốt kén tay tì hổ — Bề tôi chọn kè vuốt nanh {Bình Ngô đại cáo]. Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, nào cũng có những chiến sĩ “tì hổ” và “dữ oai hùm” như thế đó! Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên một câu thơ rất hay: Quân xanh màu lá dữ oai hùm, lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật... muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng” - hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt. “Mộng qua biên giới” - mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh Tây Tiến. Lại có những giấc mơ đẹp. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà thành xếp bút nghiên theo việc kiếm cung, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: Từ thuở mang gươm đi giữ nước/ Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long [Huỳnh Vàn Nghệ], sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, Những phố dài xao xác hơi may?... Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những “dáng kiều thơm” tùng hò hẹn. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những “mộng rớt”, “buồn rớt” chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tầm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

[Đất nước]

Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác. Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa! Hình ảnh “dáng kiều thơm” trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều thú vị: ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút nhà thơ - chiến sĩ nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến trong trận mạc. Nếu người nông dân mặc áo lính trong thơ Chính Hữu mang theo nỗi nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ mái nhà tranh, nhớ ruộng nương...; trong thơ Hồng Nguyên là nỗi nhớ người vợ trẻ: “Mòn chân bên cối gạo canh khuya”, ... thì người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “mơ”. Mộng lập chiến công, mơ “dáng kiều thơm”. Hữu Loan trong bài thơ “Màu tím hoa sim” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của người lính chống Pháp:

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến tranh

Mấy người đi trờ lại

Lỡ khi mình không về

Thì thươmg người vợ lẻ bóng chiều quê.

Viết về “mộng” và “mơ” của người chiến binh Tây Tiến, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời của đồng đội. Đó là một nét khám phá của nhà thơ khi vẽ chần dung anh bộ đội Cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng. Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hi sinh của họ.

Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi lụy về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hi sinh của người lính bàng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Trong gian khổ và chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ nằm lại nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ nằm rái rác biên cương. Câu thơ để lại trong lòng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào. Có thể thấy câu thơ: Rãi rác biên cương mồ viễn xứ nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi “viễn xứ”. Từng chữ, từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát về linh hồn của những tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ “rải rác” dễ gợi sự hoang lạnh, lại là “rải rác” nơi “viễn xứ”, những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội: Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Câu thơ của Quang Dũng làm ta nhớ tới ý thơ Chinh phụ ngâm.

Hồn từ sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của lòng biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. “Đời xanh" là: trai trẻ, là tuổi thanh xuân của Những chàng trai chưa trả nợ anh hùng... những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Họ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Câu thơ Chiến trường đi chăng tiếc đời xanh vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ dộc lập, tự do cho Tổ quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lén khúc độc hành.

Các tráng sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm “áo bào” bình dị ấy: “anh về đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ra trận giết giặc vì quê hương. Anh ngã xuống là: “về đất”, nằm trong lòng mẹ Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết”, từ “hi sinh” mà lấy cụm từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, “về đất” cũng là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước.

Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu cho quê hương, đã chết vì đất nước quê hương. “Anh về đất” bằng tất cả tấm lòng chung thủy của người chiến sĩ. Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ẩy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong “ Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:
Ở đây không mành ván Chôn anh bằng tấm chăn Của đồng bào Cứa Ngăn Tặng tôi ngày sơ tán.

Chỉ có điều câu thơ cùa Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hi sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” giữa núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài ca “Chiêu hồn liệt sĩ’ tiễn đưa linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn thu. Câu Sông Mã gầm lên khúc độc hành là một câu thơ hay vì gợi tả được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, thương tiếc. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.

Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống ở các động từ. Động từ “gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội mãi vào núi rừng miền Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các động từ là các từ Hán - Việt [biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, sông Mã, khúc độc hành]. Nhà thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến. Chất bi tráng và màu sắc lãng mạn từ vần thơ tỏa rộng trong không gian và chiều dài lịch sử.

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kì chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc. 

Video liên quan

Chủ Đề