Đọc truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu bản Quốc Ngữ 2082 câu Full, tóm tắt truyện lục vân tiên cứu kiều nguyện nga hay nhất, Vân Tiên Cổ Tích Tân Truyện
Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác vào cuối thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam.
Truyện Lục Vân Tiên [mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên] là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Lục Vân Tiên truyện ấn bản Giáp Tuất do Duy Minh Thị phát hành năm 1874
Mục lục
- Phần I
- Phần II
- Phần III
- Phần IV
Trước đèn xem truyện Tây minh[1],
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Có người ở quận Đông-thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,Tuổi vừa hai tám[2] nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình[3] lao đao.
Trước là báo bổ sau là hiển vang[7]".
Máy trời[8] chẳng dám nói ra,
Thầy cho hai đạo phù thần[9] đem theo.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng[13]:
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan[15].
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai[16].
Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương[17],
Mang đai Tử-lộ quảy bầu Nhan Uyên[18].
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay[19]".
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu[22].
Chạy đi cho khỏi kẻo âu[23] tới mình".
Khác nào Triệu tử phá vòng Đương-dang[27].
Gẫm câu báo đức thù công[29],
Của này là của vất vơ[32],
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây[33].
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào[34],
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai[37].
Trăm năm cho vẹn chữ tùng[39] mới an.
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình[42],
No nao[44] trả đặng công ơn cho chàng".
Sao sao[45] chẳng kíp thời chầy,
Dời chơn ra chốn hoa đình[46],
Chữ tình càng tưởng càng thâm[47],
Văn đà khởi phụng đằng giao[4],
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội long vân,Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây[5],
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa[6].
Làm trai trong cõi người ta,
Tôn sư khi ấy luận bàn:
"Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Chẳng may mà gặp lúc nghèo[10],
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà,Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao.
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lý trường đồ,Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.Song đường tuổi hạc đã cao[11],
Xin thầy nói lại âm hao[12] con tường".
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng.
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạng Tử-vi thêm lòa[14].
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thầy đeo đoạn thảm tớ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,Trước là tìm bạn sau là nghỉ chơn. Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
Hay là một đản g Sơn-đài[20] theo tao?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời".
Dân nghe tiếng nói khoan thai,Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
"Nhơn rày có đản g lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn Sơn-đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.Bây giờ xuống cướp thôn hương,
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn!
Con ai vóc ngọc mình vàng,Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng[21].
E khi mắc đản g hành hung,
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,Qua xem tướng bậu[24] thơ ngây đã đành.
E khi họa hổ bất thành[25],
Khi không[26] mình lại xô mình xuống hang".
Vân Tiên ghé lại bên đàn g,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.Kêu rằng: "Bớ đản g hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Trước sau chưa hãn[28] dạ này,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?".
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất tên là Kim Liên.Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà-khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành!
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà-khê qua đó cũng gần,Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn[31] nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành!".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi[35].
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì[36],
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,Vân Tiên họa lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Có câu xúc cảnh hứng hoài[38],
Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông!
Hữu tình chi bấy Ngưu-lang[40],
Tấm lòng Chức-nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Đẩy xe cho chị qua miền Hà-khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê,Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi.Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy nhi[41],
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Chú thích cuối trang[sửa]
- ▲ Bài văn tự răn nổi tiếng bàn về đạo hiếu và đạo nhân, do Trương Tái làm
- ▲ Hai tám: 16 tuổi
- ▲ Sân Trình: chỉ Trình Chiêu và Trình Di, hai nhà Nho nổi tiếng đời Tống
- ▲ Văn đã như phượng trỗi dậy, rồng bay cao, tức văn đã thành tài
- ▲ Ý nói quyết thi đỗ
- ▲ Danh tôi: danh của kẻ tôi tớ [Vân Tiên nói nhún]
- ▲ Báo đáp công ơn cha mẹ và thầy
- ▲ Máy trời: thiên cơ [cơ trời huyền bí]
- ▲ Phù thần: bùa hộ mệnh
- ▲ Hiểm nghèo
- ▲ Song đường: xuân đường, huyên đường [cha mẹ]. Tuổi hạc: tuổi thọ
- ▲ Âm hao: tin tức
- ▲ Nhân cơ trời đang chứa nhiều bí ẩn [do xem trăng sao mà biết]
- ▲ Sao Thiên Khôi [sao văn học, thi cử] và sao Tử Vi [thân mệnh] đều sáng rỡ
- ▲ Nhưng gặp năm xung nên chưa thuận [mão xung dậu]
- ▲ Tiền trình: con đường phía trước
- ▲ Mỗi người một phương trời
- ▲ Tử Lộ, Nhan Uyên: hai học trò giỏi của Khổng Tử, thuở nhỏ rất nghèo, Tử Lộ chỉ có một dây đai, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước
- ▲ Tôi ngay: bề tôi trung thành của vua
- ▲ Đản g sơn đài: đản g cướp núi
- ▲ Dung nhan lạnh lùng [tiếng cổ]: sắc đẹp tuyệt vời
- ▲ Thục nữ: con gái đức hạnh. Thất phu: đàn ông thô bỉ
- ▲ Âu [ưu]: lo
- ▲ Qua: ta. Bậu: ngươi [bạn, anh bạn]
- ▲ Vẽ hổ không thành: mưu đồ thất bại
- ▲ Khi không: không dưng
- ▲ Triệu Tử phá vòng Đương Dương: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại ở Tân Dã phải bỏ chạy. Quân Tháo đuổi theo đến Đương Dương, thì Lưu Bị phải bỏ cả vợ con, cướp đường rút về phía Nam, tướng tá lạc nhau. Triệu Tử Long một mình đánh phá vòng vây trùng điệp của quân Tào, vượt cầu Trường Bản, tìm gặp Lưu Bị
- ▲ Chưa hãn: chưa rõ, chưa biết chắc chắn
- ▲ Báo trả ơn đức, đền đáp công lao
- ▲ Luận ngữ: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã", nghĩa là: thấy việc nghĩa không làm là người vô dũng
- ▲ Thìn: răn, giữ
- ▲ Của vất vơ: của quấy quá, không mấy giá trị
- ▲ Lây dây: lỡ dở không xuôi bề nào
- ▲ Ngạt ngào: mùi thơm nức, đây ý nói thơ hay lắm
- ▲ Chẳng phen: chẳng bằng, chẳng sánh kịp. Tạ nữ: tức Tạ Đạo Uẩn đời Tấn nổi tiếng thông minh, giỏi thơ văn. Từ phi: tên Huệ, người đời Đường, tám tuổi đã giỏi việc văn thơ
- ▲ Dũ xuất dũ kì: càng đọc càng thấy hay thấy lạ
- ▲ Mai điểu: tranh mai và chim đẹp hài hòa. Đây nói thơ xướng họa, tình ý rất xứng hợp nhau
- ▲ Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước cảnh đẹp mà động lòng thơ
- ▲ Vẹn chữ tùng: trọn đạo làm vợ [theo chồng]
- ▲ Ngưu Lang: nhân vật thần thoại, chồng của Chức Nữ
- ▲ Tùy nhi: trẻ theo hầu
- ▲ Tiền trình: việc đi đường vừa rồi
- ▲ Đòi cơn: nhiều cơn
- ▲ No nao: nỏ biết lúc nào, chừng nào
- ▲ Sao sao: dù thế nào
- ▲ Hoa đình: nhà nhỏ ngồi thưởng hoa
- ▲ Thâm: sâu
- ▲ Sơn xuyên: núi sông, nói sự xa xôi cách trở
Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Nhớ câu bình thủy tương phùng[2],
Cho con trả nợ thanh khâm[4] cho rồi".
Kiểng xinh như vẽ người tươi như dồi[7].
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng[11].
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa[13] lo gì".
Tên là Tử Trực văn chương tót đời[14].
Lấy câu bình thủy hữu duyên[16] làm đề".
Có đâu én hộc[21] sánh vai một bầy.
Xin về mai sẽ thượng trình[22] cùng nhau".
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình[23].
Tấm lòng thương gió nhớ mưa[27],
Chàng dầu cung quế xuyên dương[29],
Ba tầng cửa Võ[37] một giờ nhảy qua.
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây[38]".
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau[39]".
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng[41] đôi mươi.
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề[42]".
Bĩ bàng[45] trà rượu đã xong,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi[46].
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ[47],
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng[49]?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào[51],
Ghét đời U Lệ đa đoan[53],
Ghét đời thúc quí phân băng[55],
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha[59].
Thương người Nguyên-lượng[61] ngùi ngùi,
Thương ông Hàn Dũ[62] chẳng may,
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn[66] thuở xưa,
Nghiêm Lăng[72] đã mấy đua bơi,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước-lâm[76].
Rừng nhu biển thánh[77] minh mông,
Khai phong mới tỏ sự cơ[78],
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai[79].
Cứ theo trong sách Văn công[80] mà làm".
Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương[83].
Xảy đâu bạc tác[84] vừa ra,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần[85]".
Thấy vầy nên mới tị trần[86] đến đây.
Nói rồi quày quã[87] ra đi,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành[88].
Mịt mù nào thấy chi đâu[89],
Rạng ngày coi mạch đầu thang[91] mới đành.
Lục quân Tứ vật thang danh[100].
Nào ai đòi cuộc đòi đàn[113] chi ai".
E khi đường sá lẽ nào biết đâu[115]?
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào[117].
Hóa ra làm quẻ du hồn[125],
Pháp rằng: "Ấn[127] đã cao tay,
Pháp hay đạo hỏa phó thang[131],
"Mời ông Bàn Cổ[134] tọa tiền chứng miêng.
Cùng là tam phủ Động-đình Xích-lân[141].
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra[1].
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,Giữa đường lại gặp người ra kinh kì,
Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao[3],
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chơn một hồi...".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Tuổi vừa hai bảy[5] dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia[6],
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,Dưới chơn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chơn.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè.Lại xem dặm liễu đường hòe,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,Trên nhành chim nói dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm kiểng coi người,
Mừng duyên cầm sắt[8] mối tơ đặng liền.
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sanh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần[9],
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai[10].
Xem đà đẹp đẽ hòa hai,
Công rằng: "Ngãi tế[12] mới sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu[15]".
Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Võ Công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Song song hai gã giao kề[17],
Lục Vương hai họ đua nghề một khi.Cho hay kì lại gặp kì[18],
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành[19].
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống[20] đã đành,
Khá khen hai họ tài lành hòa hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rày xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Gọi là chút nghĩa tống tình[24],
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung[25].
Thưa rằng: "Quân tử phó công[26],
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng[28].
Quản bao chút phận má hồng,
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Thiếp xin hai chữ tào khương[30] cho bằng.
Xin đừng tham đó bỏ đăng[31],
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.May duyên rủi nợ dễ phô[32],
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần[33]".
Thể Loan vội vã lui chơn,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường-an. Xa xa vừa mấy dặm đàng,Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú sơn kì[34],
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay[35].
Người hay lại gặp kiểng hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng-lai.Cùng nhau tả chút tình hoài[36],
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa[40] đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Phút đâu gặp bạn cố tri,Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan-dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương-xuân,
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,Làm thơ mới biết bậc nào tài năng".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương[44].
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương[50]"
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm[52],
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Sớm đầu tối đánh[56] lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông[57].
Thương thầy Nhan tử[58] dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia-cát tài lành,
Thương thầy Đồng tử[60]cao xa,
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc[63] đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".Trực rằng: "Chùa rách phật vàng[64],
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân[65].
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do[67].
Di Tề chẳng khứng giúp Châu[68],
Một mình một núi ai hầu chi ai[69].
Ông Y ông Phó[70] ôm tài,
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.Thái công xưa một cần câu[71],
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu[73].
Trần Đoàn[74] chẳng chút lo âu,
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao[75].
Người nay có khác xưa nào?
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đờn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt gẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi. Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bước chơn ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Ba năm nhũ bộ[82] biết bao nhiêu tình.
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Non xanh nước bích vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn:
"Nên hư chút phận chi sờn,
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,Trong non khó liệu giữa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu!
Gẫm trong Ngân hải tinh vi[93],
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang[94].
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang[95],
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân[96].
Vị chi sẵn đặt quân thần[97],
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan[98].
Mạch thời đọc phú Lư-san[99],
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sinh.
Thập toàn Bát vị[101] sẵn dành nội thương.
Lại thông Bát trận tân phương[102],
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài[103]".
Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi".Ngang rằng: "Lục bộ[104] đều suy,
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng[105].
Cứ trong Kinh lạc[106] mà thông,
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu[107].
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm[108].
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm[109],
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình[110].
Ngoài thời cho điểm vạn linh[111],
Trong thời cho uống hoàn tình[112] mới xong.
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phúc cho chàng,
Tiên sư[114] mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỉ thần người ở trên cao,
Tiểu đồng người khá qua cầu[116],
Cùng ông thầy bói ở đầu Tây-viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Huỳnh kim Dã hạc sách cao[118],
Lục nhâm Lục giáp[119] chỗ nào chẳng hay.
Can chi[120] đều ở trong tay,
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi[121]?
Ứng vào rùa với cỏ thi[122],
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây"
Bói rằng: "Đinh mão năm may,
Hèn chi Giáp tí ngày rày chẳng an.Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,Một giao hai sách lại ba hào trùng[123].
Trang thành là quẻ lục xung[124],
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan[126].
Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình.
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho bịnh ấy đặng yên,Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày".
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay tiếng dậy đồn xa,
Tên là Đạo sĩ ở Trà-hương thôn".Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Lại thêm phù chú[128] xưa nay ai bì.
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quì lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn duổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh[129].
Pháp hay sái đậu thành binh[130],
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang[132].
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,Người nằm ta chữa rối trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề[133],
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
Thỉnh ông đại thánh Tề thiên[135],
Thỉnh bà Võ hậu[136] đều liền đến đây.
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây[137],
Cùng bà Vương mẫu[138] sum vầy một khi.
Thỉnh ông Phật tổ A-di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.Lại mời công chúa Ngũ-long[139],
Bình nam ngũ hổ hội đồng an dinh[140].
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Kiếm đường tráo chác[142] đuổi đi khỏi vòng:
"Ở đây làng xóm khó lòng, E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm. Những lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don. Thương thay tiền mất tật còn,Bơ vơ đất khách thon von[143] thế này. Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,Tôi đi khuyên giáo[144] đỡ ngày gạo rau".
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá-buôn[145].
Đương khi mưa gió luông tuồng, Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương! Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao! Dầu cho tài trí bực nào,Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ. Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chơn". Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi". Non tây vừa khuất mặt trời, Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại-đề. Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm[146],
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây". Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?" Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao, Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau. Đương cơn hoạn nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành. Từ đây tới quận Đông-thành,Trong mình có bịnh bộ hành sao xong. Lần hồi đến chốn giang trung, Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau". Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen này".Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây, Tiểu đồng người tới trước này cùng ta. Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kì". Tiểu đồng vội vã ra đi,Muốn cho đặng việc quản gì lao đao. Trịnh Hâm trong dạ gươm dao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây: "Trước cho hùm cọp ăn mày, Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn. Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình[147]!
Bấy lâu đất khách lưu linh,Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau. Nay đà hai ngả phân nhau. Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình!". Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình, Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi".Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề. Tiểu đồng bị trói khôn về, Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang: "Phận mình đã mắc tai nàn,Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ. Xiết bao những nỗi dật dờ, Đò giang nào biết bụi bờ nào hay. Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng!".Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.Sơn quân[148] ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng. Tiểu đồng thức dậy mơ màng,Xem qua dấu đất ràng ràng[149] mới hay. Nửa mừng nửa lại sợ thay, Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên. Mặt trời vừa khỏi mái hiên, Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.Hỏi thăm bà quán giữa đàng:"Bữa qua có thấy người tang[150] chăng là?" Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn". Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng". Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao. Tiểu đồng vội vã bước vào, Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả này là ai?" Người rằng: "Một gã con trai, Ở đâu không biết lạc loài đến đây. Chơn tay mặt mũi tốt thay,Đau chi nên nỗi nước này khá thương". Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than một hồi. Người đều xem thấy thương ôi! Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề. Một mình ở đất Đại-đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quải đơm[151].
Dốc lòng trả nợ áo cơm,Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền. Thứ này đến thứ Vân Tiên, Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than. Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.Lênh đênh thuyền giữa biển đông,Riêng than một tấm cô bồng[152] ngẩn ngơ. Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc[153] mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời[154]. Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,Cho người thức dậy lấy lời phôi pha[155].
Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.Vân Tiên mình lụy giữa dòng, Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày. Vừa may trời đã sáng ngày, Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.Hối con vầy lửa một giờ[156].
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày. Vân Tiên vừa ấm chơn tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi. Ngỡ thân mình phải nước trôi, Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.Ngư ông khi ấy hỏi han, Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa. Ngư rằng: "Người ở cùng ta.
Hôm mai hẩm hút[157] với già cho vui".
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,Thân tôi như thể trái mùi[158] trên cây. May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình này trơ trơ". Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.Rày doi[159] mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng. Một mình thong thả làm ăn,Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm.Nghêu ngao nay chích mai đầm[160], Một bầu trời đất vui thầm ai hay. Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời.Thuyền nan một chiếc ở đời, Tắm mưa chải gió trong vời Hàn-giang." Tiên rằng: "Vậy cũng một làng, Võ công người ở gần đàng đây chăng?" Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,Khói ba khúc vịnh thì lần đến nơi." Tiên rằng: "Xưa đã gá lời, Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương. Vợ chồng là đạo tào khương, Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.Trăm năm muốn trọn ân tình, Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử[161] ơn sâu,
Xin đem tới đó trước sau cho tròn." Ngư rằng: "Làm đạo rể con,Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim. Sợ bay mà mỏi sức chim, Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa. E khi chậm bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.Mấy ai ở đặng hảo tâm, Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi. Mấy ai hay nghĩ việc đời, Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu. Đã ba thứ tóc trên đầu,Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời". Vân Tiên thưa đã hết lời,Ngư ông chẳng đã[162] tách vời đưa sang.
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng, Võ công xem thấy lòng càng hổ ngươi.Chẳng qua sợ thế gian cười, Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa! Ngư ông đã có công đưa, Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn". Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Nhớ xưa trong núi Lư-san,Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên[163].
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang[164].
Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn". Một lời gắng giúp keo sơn, Ngư ông từ giã lui chơn xuống thuyền. Võ công khôn ngớt lòng phiền,Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay. Dạy Tiên: "Ngươi hãy ngồi đây, Cho ta trở lại sau này liệu toan". Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?Mặc con toan liệu làm sao, Vốn không ép vợ lẽ nào ép con". Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn? Ai cho sen muống một bồn,Ai từng chanh khế sánh phồn[165] lựu lê? Thà không trót chịu một bề, Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu. Dốc lòng chờ đợi danh nhu, Rể đâu có rể đui mù thể ni.Đã nghe người nói hội này, Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa. Ta dầu muốn kết sui gia, Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh". Công rằng: "Muốn trọn việc mình,Phải toan một chước dứt tình mới xong. Nghe rằng: trong núi Thương-tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra. Đông-thành ngàn dặm còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu[166] thở than. Võ công ra trước dỗ chàng: "Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành". Ra đi đương lúc tam canh,Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên. Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay[167] chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.Ghi lòng dốc trọn thảo ngay, Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên". Lặng nghe vẳng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng. Vân Tiên khi ấy hãi hùng,Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình.Nực cười con tạo trớ trinh[168], Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao. Ngẫm mình tai nạn biết bao, Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo[169]. Trong hang sau trước quạnh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi. Oan gia nợ đã khéo gây,Ôi thôi thân thể còn gì mà toan. Đã đành xa cõi nhơn gian, Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co. Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng[170].
Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba huờn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần[171] xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài phù tiên. Mới hay là Lục Vân Tiên.Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra. Khỏi hang một dặm vừa xa, Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông. Du thần trở lại sơn trung, Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.Lão tiều cơm gói sẵn sàng, Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng. Tới đường đại lộ là chừng, Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than. Hay là yêu quái tà gian,Rung cây nhát lão làm đuờng hại nhân. Lão tiều liền bước lại gần, Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn. Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"Vân Tiên nghe tiếng mừng thay, Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau. Lão tiều nghe nói giờ lâu, Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:"Ít người trong tuyết đưa than[172],
Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương". Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay: "Ngửa trông lượng cả cao dày, Cứu trong một buổi ơn tày tái sanh.Mai sau về tới Đông-thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi". Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lại trông người sao hay? Già hay thương kẻ thảo ngay,Này thôi để lão dắt ngay về nhà". Tiên rằng. "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi[173].
Lại thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".Lão tiều vội ngửa áo tơi, Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên: "Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà". Khỏi rừng ra tới ngã ba,May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.Lão tiều lật đật bôn trình[174], Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi. Vân Tiên nghe tiếng cố tri, Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh[175], Cớ sao nên nỗi thân hình thể ni?" Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi, Thân này nào có khác gì cây trôi. Linh đinh gió dập sóng dồi,Rày đây mai đó khôn rồi gian nan." Minh rằng: "Đây khó hỏi han, Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau." Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu. Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."Hớn Minh quỳ gối lạy liền: "Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành. Này hai lượng bạc trong mình, Tôi xin báo đáp chút tình cho ông". Tiều rằng: "Vốn lão tình không,Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai. Tấm lòng chẳng muốn của ai, Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng. Kìa non nọ nước thong dong, Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.Công hầu phú quý mặc ai, Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày". Vân Tiên nghe biết người ngay, Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn. Lão tiều trở lại lâm sơn,Tiên Minh hai gã đều hoàn am mây[176]. Tiên rằng: "Đã gặp khoa này, Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?" Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi, Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.Anh thời về trước tỉnh thân[177]. Tôi thời mang gói sau lần ra kinh. Đi vừa tới huyện Loan-minh, Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng. Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì[178]. Tôi bèn nổi giận một khi, Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò. Mình làm nỡ để ai lo, Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.Án đày ra quận Sóc-phang, Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây. Vừa may mà gặp chùa này, Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương". Vân Tiên nghe nói thảm thương,Lại bày một khúc tai ương phận mình. Minh nghe Tiên nói động tình, Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên[179],
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.Trông con như hạn trông dào, Mình này trôi nổi phương nào biết đâu. Vầng mây giăng bạc trên đầu,Ba năm chưa trọn một câu sanh thành[180].
Hữu tam bất hiếu đã đành[181],
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan. Tưởng thôi như cắt ruột gan, Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần". Minh rằng: "Người ở trong trần, Có khi phú quí có lần gian nan.Thấp cao vàng biết tuổi vàng, Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê. Thôi thôi anh chớ vội về, Ở đây nương náu toan bề thuốc thang. Bao giờ hết lúc tai nàn,Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La[182] sớm gặp cũng xinh,
Muộn mà Khương tử[183] cũng vinh một đời. Nên hư có số ở trời,
Bôn chôn[184] sao khỏi đổi dời sao xong".
Vân Tiên khi ấy an lòng, Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.
Võ công làm việc trớ trinh[185],
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương. Kể từ định chước hại chàng,Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui. Ngày ngày trang điểm phấn dồi, Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê. Xảy đâu Tử Trực vừa về, Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền[186] xa chơi. Thương chàng phận bạc trong đời, Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng". Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa. Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa, Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình. Trời sao nỡ phụ tài lành, Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.Cùng nhau chưa đặng vuông tròn. Người đà sớm thác ta còn làm chi? Trong đời mấy bực cố tri, Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm?". Công rằng: "Ta cũng thương thầm,Tủi duyên con trẻ sắt cầm[187] dở dang. Thôi thôi khuyên chớ thở than, Đây đà tính đặng một đàng rất hay. Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia[188].
Phòng khi hôm sớm vào ra, Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên".
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên[189],
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau. Vợ Tiên là Trực chị dâu,Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì. Chẳng hay người học sách chi, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe? Hay là học thói nước Tề,Vợ người tử Củ đưa về Hoàn công[190].
Hay là học thói Đường cung[191], Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân? Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm[192].
Nói sao chẳng biết hổ thầm,Người ta há phải là cầm thú sao?" Võ công hổ thẹn xiết bao, Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua. Thể Loan trong cửa bước ra, Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.Thiếp đà chẳng trọn lời thề, Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng[193],
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy. Chẳng ưng thời cũng làm khuây,Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng?". Trực rằng: "Ái Lữ Phụng-tiên,Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi[194]?
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi, Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa?Hổ hang vậy cũng người ta, So loài cầm thú vậy mà khác chi? Vân Tiên anh hỡi cố tri, Suối vàng có biết sự ni chăng là?" Tay lau nước mắt trở ra,Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành. Võ công hổ thẹn trong mình,Năm ngày nhuốm bịnh thất tình chết oan[195].
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang, Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.[h=4]Chú thích cuối trang[sửa][/h]
- ▲ Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu
- ▲ Bình thủy tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp
- ▲ Bằng hữu chi giao: tình bạn bè
- ▲ Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên
- ▲ Hai bảy: mười bốn
- ▲ Hồ Việt nhứt gia: người Hồ [phía Bắc] người Việt [phía Nam] chung một nhà
- ▲ Dồi: trau dồi son phấn
- ▲ Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hòa thuận êm ấm [như tiếng đàn sắt, đàn cầm hòa nhau]
- ▲ Kẻ ở nước Tấn [phía Đông] người ở nước Tần [phía Tây], chỉ sự xa cách mỗi người một ngả
- ▲ Tức giai ngẫu [một đôi tốt đẹp], chỉ vợ chồng tốt đôi
- ▲ Dâu nam giản: người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ Kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đông sàng: chỉ chàng rể tốt
- ▲ Ngãi tế: con rể
- ▲ Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ
- ▲ Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người
- ▲ Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai
- ▲ Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên
- ▲ Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau
- ▲ Kì: chỉ người tài giỏi khác thường
- ▲ Bạch Hàm, Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ văn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến
- ▲ Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước
- ▲ Én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc [Trực nói nhún]
- ▲ Thượng trình: lên đường
- ▲ Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lê đình: sân có trồng lê
- ▲ Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm
- ▲ Liễm dung: nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng
- ▲ Phó công: đi thi lập công danh
- ▲ Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động
- ▲ Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng
- ▲ Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt
- ▲ Tào khương: tấm cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn
- ▲ Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đăng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá
- ▲ May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó bày ra rành rành
- ▲ Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú
- ▲ Sông đẹp núi lạ, nói cảnh đẹp
- ▲ Gặp thời, thỏa lòng đua sức đua tài
- ▲ Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng
- ▲ Cửa Võ: mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng năm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hóa rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi là vượt qua Vũ môn
- ▲ Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng
- ▲ Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn
- ▲ Kinh địa: đất kinh đô
- ▲ Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng
- ▲ Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề
- ▲ Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm
- ▲ Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon Cúc hương: hương hoa cúc
- ▲ Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất
- ▲ Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn
- ▲ Bất tài đồ thơ: không có tài năng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi
- ▲ Tôn Tẫn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để ghìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẫn nhưng ông không đề phòng [không lừa, không lực chọn]
- ▲ Tuyền: trọn đủ cả. Ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?
- ▲ Hay ghét hay thương: biết ghét và ghét thương
- ▲ Tầm phào: vu vơ, hão huyền
- ▲ Kiệt Trụ: vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm
- ▲ U Lệ: U Vương và Lệ Vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối
- ▲ Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, năm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn
- ▲ Đời thúc quí: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân băng: chia lìa
- ▲ Sơm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh
- ▲ Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học
- ▲ Nhan tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử
- ▲ Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành
- ▲ Đổng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán
- ▲ Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn
- ▲ Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu
- ▲ Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học
- ▲ Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn
- ▲ Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước
- ▲ Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân
- ▲ Sào Phủ Hứa Do: hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu
- ▲ Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi Thú Dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu.Chăng khứng: không chịu
- ▲ Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả
- ▲ Hai đại công thần nhà Thương
- ▲ Thái công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ Vương dựng nghiệp nhà Chu
- ▲ Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ
- ▲ Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh tao ẩn dật. Áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát
- ▲ Trần Đoàn: học rộng, tinh thông Kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên
- ▲ Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao
- ▲ Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc [Trúc Lâm thất hiền]
- ▲ Rừng nhu biển thánh: đạo Nho dày như rừng, rộng như biển
- ▲ Khai phong: mở phong thư. Sự cơ: sự tình, nông nỗi
- ▲ Qui lai: trở về, quay về [vì mẹ chết]
- ▲ Sách Văn công: sách quy định nghi lễ về tang ma cưới xin
- ▲ Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con
- ▲ Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm
- ▲ Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên
- ▲ Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa
- ▲ Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao
- ▲ Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn
- ▲ Quày quã: vội quay phắt ngay đi
- ▲ Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người
- ▲ Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù
- ▲ Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối
- ▲ Đầu thang: bốc thuốc
- ▲ Y học, Thọ thế, Đông y là các bộ sách y học cổ truyền
- ▲ Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt
- ▲ Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai
- ▲ Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng
- ▲ Ngự Toản, Hồi xuân: các sách thuốc cổ
- ▲ Quân thần: vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y
- ▲ Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận
- ▲ Lư san: bài phú dạy phép xem mạch
- ▲ Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết
- ▲ Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy
- ▲ Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn
- ▲ Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài
- ▲ Lục bộ: sáu bộ mạch
- ▲ Phù hồng: mạch nổi
- ▲ Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người
- ▲ Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hỏa: dương khí [thận hỏa]
- ▲ Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt [giáng hỏa]. Tư âm: làm vượng âm lên
- ▲ Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng
- ▲ Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại
- ▲ Vạn linh: thuốc chữa mắt đau
- ▲ Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra
- ▲ Đòi cuộc đòi đàn: đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước
- ▲ Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc
- ▲ E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỷ thần nên bị quỷ thần phạt
- ▲ Cầu: cầu xin giúp
- ▲ Châu Diệc: Kinh Dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán
- ▲ Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán
- ▲ Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán
- ▲ Can, chi: trong khoa lý số
- ▲ Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường
- ▲ Mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói
- ▲ Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa
- ▲ Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau
- ▲ Quẻ du hồn: quẻ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách
- ▲ Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở
- ▲ Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp
- ▲ Phù chú: lá bùa và câu thần chú
- ▲ Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất
- ▲ Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hóa thành binh lính
- ▲ Đạo hỏa: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi
- ▲ Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất
- ▲ Hề: hề đồng
- ▲ Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Tọa tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho
- ▲ Tôn Ngộ Không
- ▲ Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương
- ▲ Vị tướng đời Đường
- ▲ Bà tiên cai quản tiên nữ
- ▲ Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương
- ▲ Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại
- ▲ Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân
- ▲ Tráo chác: lừa dối, trở mặt
- ▲ Thon von: cô đơn sa sút gian nguy
- ▲ Khuyên giáo: đi xin của bố thi
- ▲ Cầu bắc qua rạch Lá Buôn [Biên Hòa]
- ▲ Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng
- ▲ Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn
- ▲ Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ
- ▲ Ràng ràng: rành rành
- ▲ Người tang: người bận áo tang
- ▲ Quảy đơm: cúng lễ
- ▲ Cô bồng: con thuyền lẻ loi
- ▲ Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào
- ▲ Vời: khoảng nước rộng, lòng sông
- ▲ Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện
- ▲ Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa
- ▲ Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo
- ▲ Trái mùi: trái chín nục
- ▲ Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông
- ▲ Chích, đầm: ao hồ
- ▲ Cứu tử: cứu cho khỏi chết
- ▲ Chẳng đã: cực chẳng đã
- ▲ Ngũ Viên [Ngũ Tử Tư] một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông
- ▲ Hạng Vũ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông [nhưng Hạng Vũ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát
- ▲ Phồn: giống, thứ hạng
- ▲ Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính
- ▲ Gay: vặn quai chèo chặt cọc chèo
- ▲ Trớ trinh: trớ trêu
- ▲ Cheo: loài nai xạ hương
- ▲ Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi. Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn
- ▲ Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian
- ▲ Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi
- ▲ Không hòa mùi chi: không ăn uống gì
- ▲ Bôn trình: lên đường
- ▲ Nhơn huynh: người anh tốt
- ▲ Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh
- ▲ Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ
- ▲ Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa
- ▲ Xuân huyên: cha mẹ
- ▲ Để tang ba năm cũng chưa đủ để báo đáp công sinh thành của cha mẹ
- ▲ Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu
- ▲ Cam La: mưu sĩ thời Chiến Quốc
- ▲ Khương Tử Nha
- ▲ Bôn chôn: nôn vội
- ▲ Lừa dối
- ▲ Huỳnh tuyền: suối vàng
- ▲ Sắt cầm: tình duyên
- ▲ Thất gia: chỉ vợ chồng
- ▲ Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó
- ▲ Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em
- ▲ Đường cung: cung vua Đường
- ▲ Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở [thực chất là con Bất Vi] lên ngôi Tần vương [Tần Thủy Hoàng]
- ▲ Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa. Nằng nằng: quyết một bề không đổi
- ▲ Điêu Thuyền dùng mĩ nhân kế quyến rũ Lã Bố và Đổng Trác, khiến Bố giết Trác
- ▲ Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộna -
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà-khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông-thành chăn dân[1].
Biệt tin từ ấy nhẫn nay[2],
Riêng than chút phận tơ điều[3],
Ô-qua[11] quốc hiệu binh nhung dấy loàn.
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên[12].
Sao sao[14] một thác thời xong,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh[15]:
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì[16]:
Nghiệm trong tình ý dần lân[17] hỏi liền:
Hán-giang chưa gặp Ô-kiều lại rơi[4]".
Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa,Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chơn mặt mũi giống in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:"Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:"Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du[5],
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng[6].
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng[7],
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà!Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
Nàng rằng: "Trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng: Chút nặng tình xưa,Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
Ngửa trông đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân!"
Lục ông từ tạ lui chân,Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
Nguyệt Nga nhuốm bịnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đấng anh tài,
Việc văn việc võ nào ai dám bì?
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!Thương vì hai tám tuổi đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chẳng đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,Vùa hương bát nước[8] ai dành ngày sau.
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?"Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy gánh giữa đường chẳng hay.
Nay đã loan phụng lẽ bầy,
Nệm nghiêng gối chích phận này đã cam.Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người[9].
Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui:"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước[10] kết đàng sui gia.
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
Xảy đâu giặc mọi hành hung,
Hạnh Ngươn[13] xưa cũng chẳng yên,
Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn ghi.Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linh,Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.
Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
"Tượng này sao giống Vân Tiên? Bấy lâu thờ có linh thiêng đều gì?" Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
Một câu chánh tiết[18] phải ghi vào lòng.
Trăm năm cho vẹn đạo tòng,Sống sao thác vậy một chồng mà thôi". Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi, Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa? Làm người trong cõi gió mưa, Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào.Chúa xuân còn ở vườn đào, Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần. Chúa đông ra khỏi vườn xuân, Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang. Ở đời ai cậy giàu sang,Ba xuân[19] mòn hết, ngàn vàng khôn mua. Hay chi như vãi ở chùa, Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh. Linh đinh một chiếc thuyền tình, Mười hai bến nước biết mình vào đâu?Ai từng mặc áo không bâu[20], Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau? Nàng sao chẳng nghĩ trước sau, Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình". Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.Chẳng phen thói nước Trịnh đâu[21], Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình". Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh, Sao không soi xét để mình ngồi không.Hồ-dương xưa mới góa chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa[22].
Hạ Cơ[23] lớn nhỏ đều ưa, Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân. Hớn xưa Lữ hậu thanh xuân,Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ki[24]. Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già[25].
Cứ trong sách vở nói ra, Một đời sung sướng cũng qua một đời.Ai ai cũng ở trong trời,Chính chuyên trắc nết[26] chết thời cũng ma. Người ta chẳng lấy người ta, Người ta đâu lấy những là tượng nhân? Cho nên tiếc phận hồng nhan,Học đời Như Ý vẽ chàng Văn Quân[27]". Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân, Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi. Bùi ông ngon ngọt trau dồi, Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:"Làm người chấp nhứt[28] sao đành,
Hễ là lịch sự có kinh có quyền[29]. Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai? Nhớ câu: Xuân bất tái lai,Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn. Làm chi thiệt phận hồng nhan, Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng. Vọng phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy[30] cùng con lão một nhà cho xuôi". Nguyệt Nga giả dạng mừng vui, Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy. Tôi xin dám gởi lời này,Hãy tua[31] châm chậm sẽ vầy nhơn duyên. Tôi xin lạy tạ Vân Tiên, Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung". Cha con thấy nói mừng lòng, Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.Chiếu hoa gối sách bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra[32]. Xảy vừa tới lúc canh ba, Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ. Dán trong vách phấn một tờ,Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi. Hai bên bờ bụi rậm rì, Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ. Lạ chừng đường sá bơ vơ, Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.Qua truông rồi lại lên đèo, Dế kêu giắng giỏi sương gieo lạnh lùng.
Giày sành đạp sỏi[33] thẳng xông,
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu. Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,Tìm nơi bàn thạch ngỏ hầu nghỉ chưn. Người ngay trời phật cũng vưng, Lão bà chống gậy trong rừng bước ra. Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,Khá tua[34] gắng gượng về nhà cùng ta.
Khi khuya nằm thấy Phật bà, Người đà mách bảo nên già tới đây". Nguyệt Nga bán tín bán nghi, Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà. Bước vào thấy những đàn bà,Làm nghề bô vải lụa là mà thôi. Nguyệt Nga đành dạ ở rồi, Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào. Hỏi thăm ra chốn Ô-sào,
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi[35]!
Chú thích cuối trang[sửa]
- ▲ Chăn dân: trị dân, cho dân yên ổn làm ăn
- ▲ Nhẫn nay: đến nay, tới bây giờ
- ▲ Tơ điều: tơ đỏ xe duyên
- ▲ Nguyệt Nga chưa nên nghĩa vợ chồng với Vân Tiên, cũng như Chức nữ, Ngưu lang chưa kịp gặp nhau trên sông Ngân mà nhịp cầu Ô đã rơi mất, không bao giờ gặp lại được nữa
- ▲ Phù du: con vờ
- ▲ Công phu lỡ làng: bỏ sức ra làm dang dở
- ▲ Đồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu
- ▲ Vùa hương bát nước: bát hương và chén nước thờ
- ▲ Vừa đưa chồng về lại bên kia sông Ngân, thì đã lại đến Cầu Lam rước người tình khác. Ý nói mất chồng này tìm chồng khác
- ▲ Mai chước: người làm mối
- ▲ Ô Qua: tên ngầm chỉ giặc Qua Oa ở bể vào cướp phá miền Châu Đốc, Hà Tiên
- ▲ Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế bị tuyển làm cung nữ. Nàng không chịu đút lót cho Mao Diên Thọ nên bị y vẽ xấu đi, vua không vời đến. Về sau bị chọn tiến vua Hung Nô
- ▲ Hạnh Ngươn: nhân vật truyện Nhị độ mai
- ▲ Sao sao: dù thế nào đi nữa
- ▲ Thân danh: thân mình và danh dự
- ▲ E rằng người che chở và nuôi nấng mình có mưu toan gì?
- ▲ Dần lân: lân la dần dần
- ▲ Chánh tiết: trinh tiết, ngay thẳng
- ▲ Ba xuân: ba tháng xuân, tuổi xuân
- ▲ Bâu: cổ áo
- ▲ Chẳng phen: chẳng bắt chước. Thói nước Trịnh: thói tà dâm như trai gái nước Trịnh trèo tường đón ngõ rủ rê nhau ra nơi đồng nội để thỏa lòng dục
- ▲ Công chúa Hồ Dương chồng chết, phải lòng Tống Hoằng
- ▲ Hạ Cơ: con gái Trịnh Mục Công, xinh đẹp, lẳng lơ, có chồng mà vẫn một lúc ngoại tình với nhiều người
- ▲ Lữ Hậu: vợ Hán Cao Tổ. Cao Tổ mất, Lữ Hậu tư thông với Dị Ki [Thẩm Tự Cơ] cho Tự Cơ làm tả thừa tướng để tiện bề chung chạ
- ▲ Võ Hậu thông tình với hai anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi [tức Di Tôn, Tam Tư]
- ▲ Chính chuyên: một bề tiết hạnh. Trắc nết: mất hết
- ▲ Nàng Như Ý sau khi cứu Văn Quân thoát nạn, đem lòng yêu chàng, vẽ hình chàng. Sau hai người lấy nhau [tuồng cổ]
- ▲ Chấp nhứt: câu nệ về một lẽ
- ▲ Hễ là người trải đời thì phải biết cả chấp kinh [tuân thủ nguyên tắc] lẫn tòng quyền [vượt ngoài nguyên tắc]
- ▲ Vầy: sum họp
- ▲ Tua: nên phải
- ▲ Gối sách: gối gấp nhiều lớp, có thể chồng lên nhau mà ngồi dựa. Bát bửu: tám vật quý là gươm, giáo, búa... bằng đồng hay bạc để bày cho thêm sang trọng
- ▲ Giầy xéo lên sành, đạp lên sỏi
- ▲ Khá tua: phải nên
- ▲ Nguyệt Nga đã trôi dạt tới chốn cửa ải và núi non, xa xôi cách trở
Đoạn này tới thứ ra đời[1],
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bịnh đường xa,Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau[3],
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền[10] đuổi ra".
Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh[17].
Sắc phong phó tướng bình di[18],
Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
Phút đâu binh đáo quan thành[23],
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
Lần theo đường núi phút đà tam canh[28].
Để lời thệ hải minh sơn[30],
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ[31],
Minh rằng: "Tẩu tẩu[33] ở đâu,
Đem binh trở lại trào ca đề huề[34].
"Ô-qua dấy động qua mâu[35] cũng vì
Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng[39].
Thấy vầy nên dửng dừng dưng[41],
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn[43].
Tuần dư[45] phút đã gần kề Hàn-giang.
Soi gương đánh phấn ra phòng[46] rước duyên.
Ngư tiều nay đặng danh biêu[47],
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
Ca ca sao chẳng chịu đi[49],
Bày ra sáu lễ[50] sẵn sàng,
Sanh con sau nối gót lân[51] đời đời.
Tưởng bề nguồn nước cội cây[5],
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng[6].
Suy trang nằm giá khóc măng[7],
Hai mươi bốn thảo[8] chẳng bằng người xưa".
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
"Kiều công rày ở Tây-xuyên,
Vân Tiên dự trúng khôi khoa[15],
Đương trong nhâm tý thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
Sở Vương phán trước ngai vàng,Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong[16].
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
Tiên Minh tương hội[19] xiết gì mừng vui.
Nhứt thinh phấn phát oai lôi[20],
Tiên phuông hậu tập[21] trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Ô-qua xem thấy xuất hành cự đang[24].
Tướng Phiên hai gã đường đường,Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hỏa Hổ Thần Long một hồi.Hớn Minh chùy giáng dường lôi[25],
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao[27].
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra. Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi,Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
"Quan-âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đà đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao[29].
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.Lão bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
Vân Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô-qua,Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già".
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường".
Lão bà chẳng dám lời gian:"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng: "Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Khúc nôi[32] xin cứ đầu bài phân qua".
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa,Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".Lệnh truyền mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu".
Thái sư trước bệ quì tâu:
Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân".
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:"Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng,
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan".
Trạng nguyên tâu trước trào đàng:
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen[37]".
Sở Vương phán trước bệ tiền:
Hớn xưa có gã Đổng công[40],
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa,Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà".
Sở vương phán trước trào ca:
"Thái sư cách chức về nhà làm dân.Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà". Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,Mặt nhìn khắp hết miệng chào: "Các anh!".
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan".Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho có sống làm gì nên thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,Vốn em mới dại một lần xin dung".
Trạng rằng: "Hễ đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi".Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chơn lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh Tử Trực vào tâu,Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông-thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Ai dè còn thấy bổn quan[44],
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại-đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,Phải ra đón rước lộ trình họa may".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.Dầu người còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày".
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy chơn rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Chú thích cuối trang[sửa]
- ▲ Ra đời: ra hoạt động, giúp đời
- ▲ Quy y: đi tu
- ▲ Hẩm hút tương rau: cảnh nghèo
- ▲ Minh sinh: mảnh lụa, vải hay giấy dài ghi tên họ, chức tước người chết để cúng
- ▲ Người ta có tổ tiên cha mẹ như nước có nguồn cây có gốc
- ▲ Chín trăng: chín tháng [mẹ mang thai con chín tháng]
- ▲ Nằm giá: nằm trên băng giá. Sổ Liêu xưa nằm trên băng để băng tan, bắt được cá chép về cho mẹ ăn chữa bệnh. Khóc măng: Mạnh Tông thương mẹ vốn thích ăn măng. Mùa đông ông vào rừng kiếm măng không được, ôm trúc mà khóc, tự nhiên măng mọc
- ▲ Nhị thập tứ hiếu: 24 gương hiếu xưa
- ▲ Ra bề: ra bề thế
- ▲ Biếm quyền: giáng chức quan
- ▲ Hồ phương Bắc, Việt phương Nam
- ▲ Chia bâu: chia li
- ▲ Kiều công mong cho Nguyệt Nga sẽ thành gia thất và sinh được con hay
- ▲ Kinh sư: kinh đô
- ▲ Khôi khoa: đỗ đầu [trạng nguyên]
- ▲ Chỉ: lệnh vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn
- ▲ Đề binh: đem binh đi đánh giặc
- ▲ Bình di: dẹp giặc
- ▲ Tương hội: cùng hội họp với nhau
- ▲ Một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm làm mọi người phấn khởi
- ▲ Tiên phong: quân xông trận mặt trước. Hậu tập: quân đánh bọc mặt sau
- ▲ Bình tặc: dẹp yên giặc
- ▲ Binh đáo quan thành: quân đến trước cửa thành
- ▲ Ra quân, chống trả
- ▲ Dường lôi: như sấm sét đánh
- ▲ Siêu: binh khí có lưỡi dài. Ngựa ô: ngựa lông đen
- ▲ Không quản hiểm nghèo
- ▲ Tam canh: canh ba
- ▲ Nguyệt Nga không mong gặp được Vân Tiên như Chức Nữ gặp Ngưu Lang
- ▲ Thề bể hẹn non, bền chặt
- ▲ Bảng lảng bơ lơ: kinh ngạc ngẩn người
- ▲ Khúc nôi: nỗi niềm, sự tình
- ▲ Tẩu tẩu: chị dâu
- ▲ Triều ca: buổi thiết triều. Đề huề: dắt tay nhau cùng đi
- ▲ Qua mâu: binh khí thời xưa
- ▲ Chậu úp: nói nơi tối tăm, ánh sáng không lọt tới, trong ngoài không thông nhau, ví nỗi oan không cách giải tỏ
- ▲ Ghê phen: nhiều phen
- ▲ Tướng ngỏ tôi hiền: khanh tướng và bầy tôi hiền
- ▲ Chín trùng: vua
- ▲ Đổng công: tức Đổng Trác
- ▲ Ý nói thản nhiên như không
- ▲ Bài vị: miếng gỗ hay mảnh giấy cứng, mặt có ghi tên người chết để thờ
- ▲ Các thứ lớp từ trước đến nay
- ▲ Chỉ Vân Tiên
- ▲ Tuần dư: hơn mười ngày
- ▲ Phòng: hóng chờ
- ▲ Biêu: nêu lên cho mọi người biết
- ▲ Ý câu: Vân Tiên bị xem là kẻ oán thù với nhà Thể Loan, thì Vân Tiên đã bị nhà Thể Loan hãm hại, tức là Vân Tiên trả xong nợ rồi
- ▲ Ca ca: anh. Chịu đi: ưng thuận đi
- ▲ Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới hỏi thời xưa
- ▲ Gót lân: chỉ con cháu có tài đức