Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không quân dân miền Bắc đã bắn rơi bảo nhiều máy bay B52 của Mỹ

CHIẾN THẮNG “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG” MÃI MÃI LÀ NIỀM TỰ HÀO THÚC GIỤC CHÚNG TA ĐI TỚI

Trong lịch sử dân tộc, chiến thắng cuộc tập kích chiến lược bằng B52 trên bầu trời Hà Nội tháng 12/1972, được coi như một “Điện Biên phủ trên không”. Dẫu 49 năm đã qua nhưng chiến thắng này, mãi mãi là niềm tự hào, là động lực thúc giục chúng ta đi tới, giành nhiều thắng lợi trên hành trình bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Ngày đăng : 19/12/2021 Xem với cỡ chữ

Bản in

Từ đêm 18 đến sáng ngày 30 tháng 12 năm 1972, với thái độ ngông cuồng và mưu toan tàn phá miền Bắc, đặc biệt là hai thành phố lớn và Khu Công nghiệp, đế quốc Mỹ đã tiến hành một cuộc tập kích chiến lược bằng không quân, được gọi là Chiến dịch Linebacker II - làm cho ta suy yếu để gây sức ép trong đàm phán tại Hội nghị Pari. Trong chiến dịch này, Mỹ đã huy động 729 lượt máy bay B52, hơn 1000 lượt máy bay tiêm-kích hiện đại nhất như F.111, A.6 và các loại máy bay tác chiến điện tử, cùng với đội phi công nhà nghề dày dạn nhất,. Liên tục 12 ngày đêm, máy bay Mỹ đã đã đánh phá vào 140 điểm thuộc 5 thành phố lớn, 17 tỉnh phía Bắc Việt Nam, với khối lượng bom đạn lên tới 8 vạn tấn, giết hại 4.025 người, làm bị thương 3.327 dân thường, phá hủy hoàn toàn 5.480 ngôi nhà, san bằng 24 trường học, 5 bệnh viện, nhiều rạp hát, chùa chiền, di tích lịch sử... Đây là cuộc chiến tranh điện tử, chiến tranh công nghệ cao điển hình của Mỹ với những nỗ lực cao nhất, những âm mưu, thủ đoạn tác chiến tinh vi, nham hiểm nhất. Nhưng với tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, thông minh, sáng tạo quân và dân miền Bắc, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội đã làm nên chiến thắng lịch sử, đập tan uy thế của không lực Hoa Kỳ.

Giáo sư người Mỹ, Guenter Levy trong tác phẩm nổi tiếng “Mỹ ở Việt Nam” đã khẳng định: “Chiến dịch Linebacker II là thất bại chính trị - quân sự của Mỹ, vì nó không buộc được đối phương đầu hàng, nghĩa là có những nhượng bộ mới. Bắc Việt, về thực chất đã kết thúc cuộc chiến tranh với một Hiệp định có lợi cho họ...”.

Nhớ lại sự kiện này, nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao,Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari Nguyễn Thị Bình đã viết: “Bạn bè quốc tế lúc đó cũng rất lo cho chúng ta. Nếu chúng ta không chịu nổi thì không biết cái gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe tin quân ta bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, chúng tôi đã thở phào và vô cùng sung sướng. Vậy là chúng ta có khả năng đánh bại lực lượng không quân mạnh nhất của Mỹ. Và khi 2, 3, 4, 5, 6 chiếc B52 bị bắn rơi thì dư luận thế giới đã đồng thanh đánh giá: Mỹ đã thất bại không chỉ về quân sự mà cả về chính trị...”.

Thắng lợi của quân và dân ta trong việc đập tan cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ trên bầu trời Hà Nội, làm nên một “Điện Biên phủ trên không” là một thắng lợi có một không hai trong lịch sử. Yếu tố làm nên thắng lợi nói trên “không phải là những may bay MIC, không phải là vũ khí tự động, không phải là tàu chiến mà trước hết là nhân dân, là sức mạnh chiến đấu của nhân dân” [Điện mừng Việt Nam chiến thắng của nhà chỉ huy quân sự một nước Đông Nam Á].Mặt khác, cũng chính cuộc tập kích điên cuồng của Mỹ “…đã vô tình cổ vũ sức mạnh văn hoá của người dân Việt đoàn kết họ trong cuộc chiến đấu đương đầu với Mỹ”. Điều này lý giải vì sao khi bày ra Chiến dịch Linebacker II kẻ địch hí hửng chắc thắng, nhưng cuối cùng phải chuốc lấy thất bại. Chính Kít-xinh-gơ đã thú nhận “Nếu Việt Nam chỉ anh hùng không thôi, thì chúng tôi sẽ đè bẹp, nhưng Việt Nam vừa anh hùng, vừa thông minh, sáng tạo nên chúng tôi đã thua”. Đúng như vậy, với việc đập tan cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ trên bầu trời Hà Nội chúng ta đã buộc Mỹ phải cút khỏi miền Nam Việt.Từ thắng lợi có tính bản lề này, hai năm sau, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử chúng ta đã thu non sông về một mối, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Lịch sử của dân tộc mà Mỹ đã từng huênh hoang cho trở về thời kỳ “đồ đá” đã bước sang kỹ nguyên mới: Độc lập, tự do và cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”, không chỉ làm nức lòng Nhân dân cả nước mà còn làm cho đông đảo Nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên toàn thế giới rất đỗi vui mừng. Việt Nam trở thành tấm gương chói lọi và là biểu tượng của sức mạnh chính nghĩa thắng hung tàn, bạo ngược. Cũng từ thắng lợi này, đã chứng minh cho kẻ địch biết rằng sự ngạo mạn ỷ vào vũ khí, trang thiết bị, kỹ thuật, dùng vũ khí để đe doạ, trấn áp người khác, coi thường yếu tố con người, sẵn sàng gây chiến tranh phi nghĩa luôn luôn phải chuốc lấy hậu quả. Một lần nữa khẳng định đường lối lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng ta; sức mạnh to lớn của Nhân dân ta, dân tộc ta; tinh thần sáng tạo quyết tâm làm chủ vũ khí và trang thiết bị kỹ thuật; quyết tâm khai thác triệt để tiềm năng và hiệu quả của vũ khí và trang thiết bị hiện có của Quân đội ta; đồng thời đã vô hiệu hoá được sức mạnh của những trang thiết bị, vũ khí, hoả lực của địch; hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại mà địch có thể gây ra và tận dụng hết khả năng vũ khí vốn có của mình để chiến thắng.

59 năm sau ngày chiến thắng “Điện Biên phủ trên không”, đặc biệt sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị trí và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy vậy, “trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến nhanh, phưc tạp, khó dự báo; thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp, cấp bách hơn đối công cuộc đổi mới và phát triển đất nước”[1]; phát huy tinh thần “Điện Biên phủ trên không”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn, phấn đấu đưa nước ta đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thực hiện được tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu. Trí Ánh

[1] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Lê Thùy Trang

Lần xem: 11106

Go top

Bài viết khác

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng lãnh đạo Quân chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị phương án đánh B-52 năm 1972. Ảnh tư liệu

Bản Anh hùng ca “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”

Sau những thất bại trong Mậu Thân 1968, Đường 9 - Nam Lào năm 1971; đặc biệt là sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân Việt Nam trên chiến trường miền Nam, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã quyết định phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai nhằm tàn phá hậu phương lớn miền Bắc mà đỉnh cao của nó là mở cuộc tập kích chiến lược bằng không quân đánh phá thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và nhiều mục tiêu chiến lược khác trên miền Bắc.

Để tiến hành cuộc tập kích, đế quốc Mỹ đã huy động một lực lượng lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai - hàng trăm máy bay ném bom chiến lược B-52, cùng hàng nghìn máy bay chiến thuật và nhiều tàu sân bay, tàu chiến đấu tối tân, hiện đại. Trong đó, máy bay ném bom B-52 là phương tiện chủ lực mà quân đội Mỹ sử dụng để tiến hành cuộc tập kích.

Theo Tiến sỹ Trần Hữu Huy [Hội Khoa học lịch sử Việt Nam], trong sức mạnh quân sự của Mỹ, pháo đài bay B-52 là một loại vũ khí rất hiện đại và có sức công phá rất lớn. Nó được mệnh danh là niềm tự hào của không lực Hoa Kỳ. Chính vì thế máy bay B-52 của Mỹ thường được sử dụng vào những trận đánh, những chiến dịch mang tính quyết định, tạo ra những bước ngoặt cho chiến tranh. Một trong số đó chính là cuộc tập kích chiến lược đường không vào Hà Nội-Hải phòng tháng 12/1972.

Nhận thức được sự nguy hại của B-52, ngay từ năm 1962, khi đế quốc Mỹ còn chưa trực tiếp can thiệp bằng B-52 vào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại vũ khí này”. Đến năm 1965, khi Mỹ đưa B-52 vào chiến trường Việt Nam, liên tiếp gây tội ác với đồng bào ta, Bác đã giao nhiệm vụ cho Quân chủng Phòng không - Không quân phải nghiên cứu, đối phó với B-52, vì “sớm muộn gì đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh phá Hà Nội... Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

Thực hiện nhiệm vụ Bác giao, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh bại máy bay B-52 của đế quốc Mỹ. Và chuẩn bị một lực lượng lớn tham gia chiến dịch, gồm: 6 trung đoàn tên lửa phòng không, 3 trung đoàn không quân tiêm kích, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo cao xạ, 356 đơn vị pháo, súng máy cao xạ, toàn mạng ra-đa và các lực lượng phục vụ khác.

Ngày 18/12/1972, ngay sau khi Tổng thống Mỹ Nixon mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B-52, mang tên Linebacker II vào Hà Nội và Hải Phòng, ra-đa của ta phát hiện máy bay B-52 của địch bay vào vùng trời miền Bắc.

Trong 12 ngày đêm, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc đã phải hứng chịu hơn 80.000 tấn bom đạn tàn phá, hủy diệt của đế quốc Mỹ. Riêng với Thủ đô Hà Nội, Mỹ đã sử dụng 441 lượt máy bay B-52 cùng hàng nghìn lượt máy bay chiến thuật, ném hơn 10.000 tấn bom hủy diệt nhiều khu phố, làng mạc. Chính quyền Mỹ cho rằng, loại vũ khí chiến lược như “siêu pháo đài bay B-52”, có thể ép được chúng ta ký Hiệp định Paris theo những điều khoản có lợi cho Mỹ.

Nhưng trái lại, trước sự tấn công vô cùng man rợ của kẻ thù, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã anh dũng chiến đấu. Ngay từ trận đầu ra quân, bộ đội ta đã bắn rơi tại chỗ “siêu pháo đài bay” B-52, mở màn cho những thắng lợi vang dội sau đó.

Trong 12 ngày đêm, quân ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B-52; bắt sống 43 giặc lái. Đây là tổn thất lớn chưa từng thấy ở những trận tập kích đường không lớn của quân đội Mỹ. Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn nhất bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng đã hoàn toàn bị đánh bại.

Chính vì sự tổn thất quá lớn của đế quốc Mỹ và chiến thắng vang dội của Việt Nam mà thắng lợi này của Việt Nam được thế giới ca ngợi là trận “Điện Biên Phủ trên không”.

Đỉnh cao bản lĩnh, trí tuệ

Chiến thắng của quân và dân ta đối với cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, tháng 12/1972, có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Thất bại trên bầu trời Hà Nội, đế quốc Mỹ phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng, ngừng ném bom từ Vĩ tuyến 20 trở ra và ngày 27/1/1973 ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam; mở ra thời cơ cho ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” có được trước hết là nhờ có sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã dự báo chính xác tình hình và chỉ đạo chuẩn bị từ rất sớm.

Bên cạnh sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng là kinh nghiệm cũng như trí thông minh, sáng tạo của con người Việt Nam, trực tiếp là bộ đội tên lửa phòng không - không quân. Theo Tiến sỹ Trần Hữu Huy, các loại vũ khí hiện đại chúng ta sử dụng trong chiến dịch lịch sử này phần lớn là được sự giúp đỡ từ Liên Xô. Nguyên Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từng khẳng định: nhìn lại chiến dịch lịch sử cuối năm 1972 mới thấy được rõ hơn về sức mạnh của chủ nghĩa Anh hùng cách mạng Việt Nam. Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa trao vũ khí tên lửa cho bộ đội Việt Nam là trao vũ khí cho những con người thông minh và có bàn tay vàng.

Cùng với đó, việc huy động sức mạnh tổng hợp của thế trận phòng không nhân dân đối phó với địch tại các địa bàn trọng yếu cũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo nên thắng lợi của chiến dịch.

Có thể khẳng định “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là sự kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh; xứng đáng là một đỉnh cao chiến thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại.

Trải qua gần 5 thập kỷ, Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” vẫn luôn là một biểu tượng chói lọi trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Thời gian đã lùi xa, song chiến thắng này vẫn còn nguyên giá trị, đồng thời để lại những bài học sâu sắc về phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc chúng ta hôm nay và mai sau./.

“Ký ức Hà Nội - 65 năm”

Video liên quan

Chủ Đề