Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng ta, phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác nói riêng, Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung mãi mãi là kim chỉ nam cho hành động của cách mạng, đã, đang và sẽ tiếp tục đem lại những thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bài 1:Phương pháp kế thừa tri thức nhân loại - Nét đặc sắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc đồng thời tiếp thu có phê phán, chọn lọc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng là đặc điểm nổi bật trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác.
Trước Mác, các nhà tư tưởng hoặc là kế thừa một cách rập khuôn, giáo điều hoặc là phủ định sạch trơn, do vậy lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đều có những hạn chế nhất định. Mác và Ăng-ghen đã vượt lên tất cả những hạn chế của lịch sử tư tưởng trước đó bằng cách kế thừa toàn bộ tinh hoa tri thức nhân loại, đồng thời phê phán, phủ định những hạn chế của những tư tưởng đó và sáng tạo ra chủ nghĩa mới mang bản chất khoa học và cách mạng, đó là Chủ nghĩa Mác.
Ảnh minh họa: dangcongsan.vn |
Trước Mác, Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc đại diện cho hai trường phái triết học đối lập nhau: Hê-ghen là đại biểu cho trường phái duy tâm nhưng “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phương pháp biện chứng cách mạng [phép biện chứng]; Phoi-ơ-bắc đại diện cho trường phái duy vật nhưng hạn chế trong triết học của ông là phương pháp siêu hình [phép siêu hình]. Mác đứng trên lập trường duy vật cách mạng củaPhoi-ơ-bắcnhưng phê phán phép siêu hình của ông ta; Mác cũng phủ định lập trường duy tâm của Hê-ghen nhưng tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phép biện chứng cách mạng. Nhờ đó, triết học Mác có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng: Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật, nó hoàn toàn khác về chất so với chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình củaPhoi-ơ-bắc. Hơn nữa, trước Mác, các nhà triết học chủ yếu là giải thích thế giới, triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà sứ mệnh cao cả hơn là cải tạo thế giới.
Học thuyết về kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học cũng tương tự như vậy. Mác đã kế thừa có phê phán những tư tưởng kinh tế chính trị học cổ điển Anh và tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp... Trên cơ sở đó, ông đã tìm ra quy luật giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Trong diễn văn tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga diễn ra ngày 2-10-1920, Lênin đã truyền thụ phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác cho thế hệ trẻ và mong muốn thế hệ trẻ sẽ là người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin nêu hai biểu hiện đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác:
Một là, Mác đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra.Lênin khẳng định: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào”. Muốn trở thành người cộng sản, nhất là đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải không ngừng học tập, nghiên cứu để có tri thức toàn diện, phong phú và sâu sắc. Lênin nhấn mạnh: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.
Theo chỉ dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu, đã kế thừa toàn bộ tri thức nhân loại sáng tạo ra, trên cơ sở đó lựa chọn con đường phát triển đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội [CNXH], bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930 và kiên định thực hiện, kể cả khi hệ thống CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,đặtCNXHtrước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Trong muôn vàn khó khăn đó, tại Đại hội VII, Đảng ta đã quyết nghị và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH [Cương lĩnh 1991]: Khẳng định ý chí sắt đá, không gì lay chuyển nổimục tiêu CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn tới mục tiêu ấy. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng, phát huy cao độ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, đã chiến đấu hy sinh ròng rã mấy chục năm trời, hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không có lý gì nay lại rẽ sang con đường khác ngược với mục tiêu đã lựa chọn.
Hai là, trên cơ sở phê phán những khuyết điểm, hạn chế, Mác đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri thức nhân loại.Đây là đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác. Lênin nhấn mạnh: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phân tích, phê phán và đã căn cứ phong trào công nhân để kiểm tra lại”. Thật vậy, Mác đã phê phán những hạn chế, khuyết điểm mà tri thức nhân loại đã sáng tạo ra, nhất là những tiền đề lý luận trực tiếp lúc bấy giờ là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh vàCNXHkhông tưởng Pháp để xây dựng nên học thuyết mới hoàn chỉnh với ba bộ phận cấu thành gồm triết học, kinh tế chính trị học vàCNXHkhoa học.
Con đường tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh động cho phương pháp kế thừa tri thức nhân loại. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ, bởiphong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại.Người chọn con đường khác để tìm ra và đi theo Chủ nghĩa Mác, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cách mạng giành độc lập dân tộc, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lênCNXH.
Con đường đi lênCNXHở nước tabỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản là sáng tạo đặc sắc của Việt Nam. Bỏ qua ở đây là bỏ qua quan hệ sản xuất bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư, tật xấu của xã hội tư bản. Còn tiếp thu những thành tựu phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, tiếp thu văn minh mà nhân loại đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.Đồng chí Nguyễn Đức Kiên-Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau và chúng ta lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướngCNXH. Ở đây nó sáng tạo ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu của trí tuệ con người để chúng ta đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập để tiến thẳng lênCNXHthì nó chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu[1]mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho người điều hành trực tiếp có động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”.
[còn nữa]
QUÁCH ĐÌNH HỢI
[1]Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Triết học của C.Mác
[1818 – 1883] và Ph.Ăngghen [1820 – 1895] là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại
của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX.
Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng là một quá trình, quá
trình này có thể được chia thành hai giai đoạn cơ bản sau:
• Giai
đoạn [1841 – 1844]: là giai đoạn hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự
chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
• Giai
đoạn [1844 – 1848]: Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm 1848 với sự
xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
• Giai
đoạn [1848 – 1895]: Mác và Ăngghen bổ sung phát triển và hoàn thiện hệ thống,
quan điểm triết học mác-xít. Giai đoạn
này được chia thành ba thời kỳ:
- Thời
kỳ thứ nhất, Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học thông qua tổng kết
kinh nghiệm cách mạng tư sản [tháng 2/1848].
- Thời
kỳ thứ hai, Mác và Ăngghen nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bộ Tư bản từ những
năm 40 và xuất bản năm 1867.
- Thời
kỳ thứ ba, Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển và hoàn thiện triết học và chủ
nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong
trào công nhân.
Triết học
Mác ra đời trong những điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX. Nó là kết quả của sự
phát triển lịch sử tư tưởng triết học và sự phát triển của khoa học nói chung,
trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra mạnh mẽ ở thời kỳ
đó.
1. Điều
kiện kinh tế - xã hội
Vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế của mình và
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học
Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:
• Thứ
nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn
tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của
kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
• Thứ
hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn,
lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa
là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học
Mác.
• Thứ
ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh
tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở
Liông [Pháp – 1831], khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi [Đức – 1844], Phong trào
Hiến chương ở Anh [Từ năm 1836 đến năm 1847]. Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có
rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự
xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh
mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Tiền
đề về khoa học tự nhiên
Bước sang
đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ
trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát minh
khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác:
• Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov
[8/11/1711 – 4/4/1765] và Antoine Lavoisier [26/8/1743 – 8/5/1794].
• Thuyết
tế bào của Theodor Schwann [sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức] và Matthias Schleiden [1804-1881]. Chứng minh sự thống nhất
về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
• Học
thuyết tiến hóa của Charles Darwin [12/2/1809 – 19/4/1882] là học thuyết cho rằng
sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc tự
nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với
giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên.
Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.
Ý nghĩa của
các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác:
Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau,
các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
3. Tiền
đề lý luận
• Kinh
tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của
A.X-mít [1723-1790] và Đ.Ri-các-đô [1772 – 1823]. Hai ông đã có những đóng góp
quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị.
Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác –
Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra
được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích, giải
thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa,
làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
• Chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
[1760 - 1825] và Sáclơ Phuriê [1772 –1837]. Hai ông đã có nhiều đóng góp cho lý
luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm quan trọng:
- Một
là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;
- Hai
là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.
Tuy
nhiên, hai ông cũng còn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là tính không
tưởng trong lý luận của các ông. Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị
tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết
thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường
cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.
• Triết
học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen
[1770-1831] và Phoiơbắc [1804-1872], là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
- Với
triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng hạn chế
lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.
- Với
Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy vật nhân
bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ông là tính chưa triệt để, máy móc, siêu hình.
Mác –
Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính chất duy
tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác –
Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu
hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng
phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
4. Nhân
tố chủ quan
• Ngoài
những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự
ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của
các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của
giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
• Cùng
với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người
hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại:
Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
Nguồn: Giáo trình