Thông báo rút kinh nghiệm số 19/TB VC1-KDTM ngày 23 5 2022

Thông báo rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM quý I/2019.

Thứ năm - 02/05/2019 09:40 806 0
Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định và kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, HNGĐ, KDTM phúc thẩm, thời điểm từ 01/12/2018 đến 31/3/2019, Phòng 9 VKSND tỉnh Hà Nam nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã có những quyết định trong bản án không đúng quy định của pháp luật nhưng VKS cùng cấp đã không phát hiện được. Ngày 05/4/2019, VKSND tỉnh [Phòng 9] ban hành Thông báo số 663/TB-VKS-DS để VKSND huyện, thành phố tham khảo, rút kinh nghiệm. Cụ thể như sau:
1. Vụ án Tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp.
* Tóm tắt nội dung và quá trình giải quyết vụ án:
Khoảng cuối năm 2012, vợ chồng ông Lê Ngọc Sinh, bà Đào Thị Hiên và vợ chồng ông Đào Văn Ngọc, bà Trần Thị Hằng thỏa thuận bằng miệng đổi ruộng cấy cho nhau. Theo đó, ông Ngọc, bà Hằng được sử dụng thửa ruộng số 29, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 385, tờ bản đồ số 11] diện tích 1.449m2 của hộ gia đình ông Sinh, bà Hiên tại cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang thuộc đội 3 [nay là thôn Ô Mễ], xã Tràng An, huyện Bình Lục; còn gia đình ông Sinh, bà Hiên được sử dụng thửa ruộng số 4, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 372, tờ bản đồ số 11] diện tích 1.449m2 của gia đình ông Ngọc, bà Hằng tại cánh đồng Thanh Tân thuộc đội 3, xã Tràng An, huyện Bình Lục. Theo ông Sinh trình bày thời gian hai bên đổi ruộng là 5 năm, đến hết năm 2017 phải hoàn trả cho nhau; còn ông Ngọc, bà Hằng xác định hai bên đổi ruộng cho nhau vĩnh viễn. Tuy nhiên cả hai bên đều không cung cấp được chứng cứ về thời hạn đổi ruộng.
Sau khi đổi ruộng, hộ ông Ngọc không cấy lúa mà cải tạo, đào đắp, vượt lập thửa ruộng để trồng cây cối, hoa màu; còn gia đình ông Sinh sử dụng ruộng đổi cấy lúa. Cuối năm 2017, gia đình ông Sinh xác định thời gian đổi ruộng đã hết nên trả lại thửa ruộng ở cánh đồng Thanh Tân cho gia đình ông Ngọc và đòi lại thửa ruộng ở cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang nhưng ông Ngọc, bà Hằng không đồng ý trả. Ngày 12/7/2018, ông Sinh, bà Hiên cùng 3 người con [có tiêu chuẩn đất ruộng] khởi kiện yêu cầu ông Ngọc, bà Hằng phải san lấp mặt bằng và trả lại hộ gia đình ông Sinh thửa ruộng ở cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang.
Bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ngọc Sinh, bà Đào Thị Hiên, anh Lê Trung Quyết, anh Lê Văn Đạt, chị Lê Thị Ngọc Oanh. Tuyên bố hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hộ gia đình ông Lê Ngọc Sinh và gia đình ông Đào Văn Ngọc, bà Trần Thị Hằng vô hiệu. Buộc ông Đào Văn Ngọc và bà Trần Thị Hằng phải san mặt bằng để trả lại cho hộ gia đình ông Sinh, bà Hiên thửa ruộng có diện tích 1.449m2 đất nông nghiệp trồng lúa thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 385, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang thuộc đội 3 [nay là thôn Ô Mễ], xã Tràng An, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. [có trích đo hiện trạng thửa đất kèm theo]. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Đào Văn Ngọc và bà Trần Thị Hằng phải liên đới chịu 3.622.500đ.
Ngày 29/10/2018, ông Ngọc kháng cáo toàn bộ bản án, không chấp nhận yêu cầu đòi lại thửa ruộng của gia đình ông Sinh. Tại Bản án phúc thẩm số 01/2019/DS-PT ngày 23/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam quyết định sửa Bản án sơ thẩm số 06/2018/DS-St ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Theo đó Bản án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ngọc Sinh, bà Đào Thị Hiên và 3 người con, tuyên bố hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hộ gia đình ông Sinh và gia đình ông Ngọc vô hiệu. Buộc ông Ngọc, bà Hằng phải san mặt bằng để trả lại cho hộ gia đình ông Sinh, bà Hiên diện tích 1.449m2 đất trồng lúa thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 385, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang. Buộc hộ ông Lê Ngọc Sinh phải trả lại cho hộ ông Ngọc diện tích 1.449m2 đất trồng lúa thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 372, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thanh Tân. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Đào Văn Ngọc và bà Trần Thị Hằng phải liên đới chịu 300.000đ [Ba trăm ngàn đồng]. Án phí dân sự phúc thẩm ông Đào Văn Ngọc không phải chịu.
* Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với thửa đất số 29, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 385, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang do hộ ông Ngọc đang sử dụng, nhưng không xem xét thẩm định đối với thửa đất số 4, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 372, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thanh Tân do hộ ông Sinh sử dụng là thiếu sót.
Về nội dung: Bản án sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hộ ông Sinh và hộ ông Ngọc vô hiệu, nhưng khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì chỉ buộc hộ ông Ngọc phải san mặt bằng để trả lại cho hộ ông Sinh thửa ruộng có diện tích 1.449m2 đất trồng lúa thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 385, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thư Hương Nghĩa Trang mà không buộc hộ ông Sinh phải trả lại cho hộ ông Ngọc diện tích 1.449m2 đất trồng lúa thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 30 [nay là thửa số 372, tờ bản đồ số 11] tại cánh đồng Thanh Tân là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 137 BLTTDS 2005 [nay là khoản 2 Điều 131 BLDS 2015].
Về án phí: Bản án sơ thẩm buộc ông Ngọc, bà Hằng phải liên đới chịu 3.622.500đ án phí dân sự sơ thẩm là không đúng. Trong vụ án này, Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tuyên bố hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp vô hiệu, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, ông Ngọc bà Hằng không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc bồi thường thiệt hại gì cho hộ ông Sinh, do vậy áp dụng điểm a khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326 ông Ngọc, bà Hằng chỉ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ.
2. Vụ án Ly hôn, nuôi con, giữa nguyên đơn chị Lê Thị Hương [SN 1989], trú tại thôn Phúc Lạc, xã Thạch Thanh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh với bị đơn anh Nguyễn Đình Khen [SN 1989], trú tại thôn Hương Cát, xã Duy Hải, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Tại Bản án sơ thẩm số 01/2019/HNGĐ ST ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên quyết định: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hương và anh Khen. Giao chị Hương trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Lê Tường Vy sinh ngày 14/6/2014 từ tháng 3/2019 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Khen không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Án phí ly hôn sơ thẩm: chị Hương, anh Khen mỗi người phải chịu 75.000đ.
* Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Bản án sơ thẩm tuyên chị Hương, anh Khen mỗi người phải chịu 75.000đ án phí ly hôn sơ thẩm là không đúng, thất thu cho ngân sách Nhà nước. Vì: Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 11/4/2017 của Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn áp dụng quy định về án phí trong vụ án ly hôn đối với trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án [khi Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn] thì mỗi bên đương sự phải chịu án phí là 75.000đ. Còn trong vụ án này tuy chị Hương, anh Khen đều nhất trí ly hôn, nhưng không thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung nên Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử để giải quyết việc nuôi con chung, do đó mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí, tức là 50% của 300.000đ bằng 150.000đ mới đúng. [Xem thêm nội dung này tại mục 18 Văn bản số 70/VKSTC V14 ngày 05/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng quy định của BLTTDS năm 2015 và nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự trong ngành KSND].
3. Vụ án KDTM tranh chấp hợp đồng vay tài sản, giữa: nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Hiền [SN 1960], trú tại Phòng 2108, tòa nhà Platinum số 6 Nguyễn Công Hoan, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội với bị đơn Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn, địa chỉ Lô U, Khu công nghiệp Đồng Văn II, xã Bạch Thượng, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 01/01/2012, bà Nguyễn Thị Hiền và Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn ký kết Hợp đồng vay tài sản là tiền Việt Nam đồng. Theo đó bà Hiền cho Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn vay tổng số tiền 2.300.000.000đ, lãi suất 12% năm, thời hạn vay 5 năm, ngày trả nợ cuối cùng là ngày 30/01/2017, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Đến hạn trả nợ Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn không thanh toán được khoản nợ nên bà Hiền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn phải thanh toán số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 30/01/2018 là 3.957.814.972đ và buộc Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn phải trả thêm khoản lãi phát sinh với lãi suất cho vay quá hạn đến khi trả hết toàn bộ số tiền nợ.
Bản án sơ thẩm số 02/2018/KDTM-ST ngày 15,20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hiền đối với Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn. Buộc Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn phải trả cho bà Nguyễn Thị Hiền và ông Nguyễn Hữu Tân tiền gốc: 1.950.000.000đ; tiền lãi trong hạn: 1.379.469.157đ; tiền lãi quá hạn tính từ ngày 31/01/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm là: 1.200.056.671đ. Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo và quyết định: kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án [đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án] cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
* Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án [đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án] cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu lãi của số tiền còn lại phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 là không đúng, không đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn. Vì ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn phải thanh toán cho bà Hiền theo hợp đồng vay tài sản tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm Công ty cổ phần nước sạch Đồng Văn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng [18%/năm] cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Đối với số tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn bên phải thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS 2015. [Lưu ý: các VKSND huyện, thành phố xem thêm Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm].

Tác giả: Phòng 9 - VKSND tỉnh Hà Nam

Video liên quan

Chủ Đề