Thời nhà Lý kinh đô nước ta đặt ở đầu

Sự thành lập nhà Lý

Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời. Triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì vậy các tăng sư và đại thần, đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc, tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Nhà Lý thành lập.

Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp [Từ Sơn - Bắc Ninh]. Thuở nhỏ làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn, theo học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Sau đó làm quan cho nhà Lê, giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư, Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng.

Năm 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên và quyết định dời đô về Đại La [nay là Hà Nội], đổi tên thành là Thăng Long [có nghĩa là rồng bay lên].

Chiếu dời đô viết:

"…Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [tức Cao Biền], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp đất Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời".

Thời Lý, kinh thành Thăng Long đã dần trở thành đô thị phồn thịnh.

Kinh thành Thăng Long được bao bọc bởi một vòng thành ngoài cùng gọi là La thành hay thành Đại La. Có thể nói vào thế kỉ XI, Thăng Long vừa là kinh đô của nước Đại Việt cường thịnh, vừa là một thành thị có quy mô lớn trong khu vực và trên thế giới lúc bấy giờ.

Hoàng thành Thăng Long

Vòng thành được đắp từ năm 1010. Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, phía ngoài đào hào, mở bốn cửa về bốn phía: đông, tây, nam, bắc. Từ thời Lý Thái Tổ, vòng thành này đã được gọi là Long thành hay Hoàng thành. Khu vực Hoàng thành có vị trí rất quan trọng với toàn bộ Kinh đô và cả nước; có nhiều cung điện làm nơi ở, nơi làm việc của vua quan, quý tộc triều đình.

Các cung điện thời Lý đêu được làm bằng gỗ, lợp ngói ống, có đầu bít ngói hình rồng, hình phượng, hình hoa sen, tạo thành một diềm mái mĩ lệ trước lầu rồng, gác phượng. Ngoài một số cung điện, còn có lầu gác hai - ba tầng, từ xa đã thấy cung điện vua ngự cao đến bốn tầng.

Bên trong Hoàng thành, có một khu vực được bảo vệ đặc biệt, gọi là Cấm thành. Đây là nơi dành cho vua, hoàng hậu và các cung tần, mĩ nữ ở. Xung quanh có vườn hoa, cây trái và một số ao hồ, có cầu bắc qua làm nơi dạo chơi ngoạn cảnh.

Phía ngoài Hoàng thành, có khu dân cư với hệ thống chợ - bến, phường phố công thương nghiệp và những xóm trại nông nghiệp. Nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình khác, có cả cung cho Hoàng thái tử ở ngoài Hoàng thành.

Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành. Vua ở ngôi theo chế độ cha truyền con nối. Các chức vụ quan trọng, nhà vua đều cử những người thân cận nắm giữ. Giúp vua lo việc nước có các đại thần, các quan văn võ. "Dân ai có gì oan ức thì đánh chuông [đặt ở trước điện Long Trì] xin vua xét xử".

Ở các địa phương, nhà Lý chia cả nước thành 24 lộ, phủ, đặt các chức tri phủ, tri châu; giao cho con cháu nhà vua hoặc các đại thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương và xã.

Luật pháp và quân đội

Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta [nhưng hiện nay không còn nữa].

Đại Việt sử ký toàn thư ghi:

"Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện".

Theo sử cũ, luật pháp thời Lý quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân, nghiêm cấm việc mổ trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Những người phạm tội bị xử phạt rất nghiêm khắc.

Quân đội thời Lý gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương.

Cấm quân: Tuyển chọn những thanh niên khỏe mạnh trong cả nước; bảo vệ vua và kinh thành.

  • Lê Hoàn được suy tôn làm vua, đánh cho quân Tống thua tan nát trên sông Bạch Đằng

Quân địa phương: Tuyển chọn trong số những thanh niên trai tráng ở các làng xã đến tuổi thành đinh [18 tuổi]; canh phòng ở các lộ, phủ; hàng năm, chia thành phiên thay nhau đi luyện tập và về quê sản xuất – khi có chiến tranh, sẽ tham gia chiến đấu.

Nhà Lý thi hành chính sách "ngụ binh ư nông" [gửi binh ở nhà nông], cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất, khi cần triều đình sẽ điều động.

Quân đội nhà Lý có quân bộ và quân thuỷ, kỉ luật nghiêm minh, được huấn luyện chu đáo; vũ khí trang bị cho quân đội gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá...

Nhà Lý còn gả các công chúa và ban chức tước cho các tù trưởng dân tộc miền núi. Nếu người nào có ý định tách khỏi Đại Việt, nhà Lý kiên quyết trấn áp.

Đối với nhà Tống, Lý Công Uẩn giữ quan hệ bình thường, tạo điều kiện cho nhân dân ở hai bên biên giới có thể qua lại buôn bán. Để ổn định biên giới phía nam, nhà Lý đã dẹp tan cuộc tấn công của Cham-pa do nhà Tống xúi giục. Sau đó, quan hệ Đại Việt - Cham-pa trở lại bình thường.

* Bài viết nhằm giúp cho độc giả nào chưa có điều kiện tìm hiểu lịch sử nước nhà có thêm kiến thức tham khảo, theo tinh thần "Dân ta phải biết Sử ta". Nguồn: SGK Sử lớp 7, tr. 35-36-37-38.

Bạn sẽ không thể tin nổi cách người ta "tạo ra" tên trộm chỉ từ 1 con vịt đồ chơi

Nhà Lý [1010-1225], quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. Năm 1010 dời đô về Thăng Long. Từ 1054 đổi quốc hiệu là Đại Việt

Nhà Lý bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê.

Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ trong lịch sử Việt Nam.

Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo nhưng ảnh hưởng của Nho giáo cũng rất cao với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu [1070] và Quốc tử giám [1076] và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước.

Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Lý

Lý Thái Tổ [1010 – 1028]

Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp [Từ Sơn, Bắc Ninh], mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất [974], mẹ chết khi mới sinh, thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ nhỏ.

Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.

Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long [tức là Hà Nội ngày nay].

Xem thêm: Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn

Lý Thái Tông - Lý Phật Mã

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Lý

Lý Thái Tông [1028 – 1054]

Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Vương Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.

Khi Vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử, nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra chém chết Võ Đức Vương, hai hoàng tử kia bỏ chạy.

Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Lý Thái Tông.

Xem thêm: Lý Thái Tông - Lý Phật Mã

Lý Thánh Tông - Lý Nhật Tôn

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Lý

Lý Thánh Tông [1054 – 1072]

Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi [1023], là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.

Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.

Xem thêm: Lý Thánh Tông - Lý Nhật Tôn

Lý Nhân Tông - Lý Càn Đức

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Lý

Lý Nhân Tông [1072 – 1128]

Thái tử Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân, Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ [1066], khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế [1072] lúc mới 6 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.

Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung [Quảng Đông, Quảng Tây] rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.

Xem thêm: Lý Nhân Tông - Lý Càn Đức

Lý Thần Tông - Lý Dương Hoán

Chi tiết Chuyên mục: Nhà Lý

Lý Thần Tông [1128 - 1138]

Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.

Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.

Xem thêm: Lý Thần Tông - Lý Dương Hoán

Video liên quan

Chủ Đề