Tần số ngoại sai là gì năm 2024

Âm thanh muốn truyền đi xa phải được biến thành tín hiệu điện. Tín hiệu này có tần số thấp, nên không có khả năng bức xạ thành sóng điện từ.

Chỉ có sóng điện ở tần số cao [> 10 kHz] mới có khả năng bức xạ sóng điện từ

Để truyền được tín hiệu âm tần đi xa phải gửi nó vào một sóng cao tần [sóng mang], thực hiện bằng cách điều chế biên độ [AM] hoặc điều chế tần số [FM].

Trong điều chế biên độ, biên độ sóng mang biến đổi theo tín hiệu cần truyền đi.

Trong điều chế tần số, biên độ sóng mang không thay đổi, chỉ có tần số sóng mang thay đổi theo tín hiệu cần truyền đi.

Máy thu thanh là một thiết bị điện tử thu sóng điện từ do các đài phát thanh phát ra trong không gian, sau đó chọn lọc, khuếch đại thông tin và phát ra âm thanh. Máy thu sóng phải tương thích với máy phát sóng.

II - SƠ ĐỒ KHỐI VÀ NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC CỦA MÁY THU THANH

Chức năng các khối như sau:

- Khối chọn sóng: có nhiệm vụ điều chỉnh cộng hưởng, để lựa chọn sóng cần thu

- Khối khuếch đại cao tần: khuếch đại tín hiệu cao tần để tăng độ nhạy.

- Khối dao động ngoại sai: Tạo ra sóng cao tần [fd] trong máy với quy luật là luôn cao hơn sóng định thu [ft] một trị số không đổi 465 kHz [hoặc 455 kHz]

- Khối trộn sóng: Trộn sóng thu của đài phát thanh [ft] với sóng cao tần trong máy fd cho ra tần số trung tần fd – ft = 465 kHz

- Khối khuếch đại trung tần: Khuếch đại tín hiệu trung tần

- Khối tách sóng: có nhiệm vụ tách, lọc tín hiệu ậm tần ra khỏi sóng mang trung tần 465 kHz, để đưa tới khối khuếch đại âm tần.

- Khối khuếch đại âm tần: Khuếch đại tín hiệu âm tần lấy từ đầu ra của tầng tách sóng phát ra loa

- Khối nguồn: Cung cấp điện cho máy thu.

Đối với máy thu FM, về cơ bản cũng có sơ đồ khối như trên. Tuy nhiên trong máy thu FM tín hiệu trung tần là 10,7 MHz và khối tách sóng là mạch tách sóng điều tần.

III - NGUYÊN LÍ LÀM VIỆC CỦA KHỐI TÁCH SÓNG TRONG MÁY THU THANH AM

Điốt Đ cho dòng điện đi qua theo một chiều nên sóng vào là sóng xoay chiều, còn sóng ra là sóng một chiều. Tụ lọc sẽ lọc thành phần có tần số cao và giữ lại đường bao có tần số thấp là âm tần.

Xem thêm các bài Lý thuyết và câu hỏi trắc nghiệm Công nghệ lớp 12 có đáp án hay khác:

  • Lý thuyết Công nghệ 12 Bài 20: Máy thu hình hay, ngắn gọn
  • Trắc nghiệm Công nghệ 12 Bài 20 [có đáp án]: Máy thu hình
  • Lý thuyết Công nghệ 12 Bài 21: Thực hành: Mạch khuyếch đại âm tần hay, ngắn gọn
  • Lý thuyết Công nghệ 12 Bài 22: Hệ thống điện quốc gia hay, ngắn gọn
  • Trắc nghiệm Công nghệ 12 Bài 22 [có đáp án]: Hệ thống điện quốc gia

Săn SALE shopee Tết:

  • Đồ dùng học tập giá rẻ
  • Sữa dưỡng thể Vaseline chỉ hơn 40k/chai
  • Tsubaki 199k/3 chai
  • L'Oreal mua 1 tặng 3

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại //tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Copyright © 2022 Hoc247.net

Đơn vị chủ quản: Công Ty Cổ Phần Giáo Dục HỌC 247

GPKD: 0313983319 cấp ngày 26/08/2016 tại Sở KH&ĐT TP.HCM

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 638/GP-BTTTT cấp ngày 29/12/2020

Địa chỉ: P401, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM

Máy thu thanh đổi tần hay còn gọi là máy thu siêu ngoại sai [tiếng Anh: superheterodyne receiver] là loại máy thu được sử dụng phổ biến hiện nay. Ưu điểm của máy thu này so với máy thu khuếch đại thẳng là có khả năng bắt sóng đồng đều toàn băng sóng.Nó được phát minh bởi kỹ sư người Mỹ Edwin Armstrong năm 1918 trong thế chiến thứ nhất.Hầu như tất cả các máy thu thanh vô tuyến hiện đại đều sử dụng loại này.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Một máy thu đổi tần [siêu ngoại sai] được chế tạo tại phòng thí nghiệm Signal Corps của Armstrong ở Paris trong Thế chiến I. Nó được chế tạo thành hai phần, bộ trộn và bộ dao động cục bộ [trái] và ba giai đoạn khuếch đại IF và một đầu dò [phải]. Tần số trung gian được sử dụng là 75 kHz.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Trong các ứng dụng vô tuyến, thuật ngữ này xuất phát từ "heterodyne detector" do nhà phát minh người Canada Reginald Fessenden tiên phong vào năm 1905, mô tả phương pháp đề xuất của ông là tạo ra tín hiệu âm thanh từ việc truyền mã Morse của các máy phát sóng liên tục mới. Với các máy phát khoảng cách tia lửa cũ hơn được sử dụng, tín hiệu mã Morse bao gồm các đợt sóng ngắn của sóng mang. Vì các cụm này được lấy từ đầu ra của máy phát điện xoay chiều, chúng đã điều biến sóng mang ở tần số trong phạm vi âm thanh và do đó có thể được nghe như tiếng kêu hoặc tiếng vo vo trong tai nghe của máy thu. Tuy nhiên, tín hiệu từ một máy phát sóng liên tục ở một tần số cao hơn dải âm thanh và Mã Morse từ một trong số này chỉ được nghe dưới dạng một loạt các lần nhấp hoặc đập. Ý tưởng của Fessenden là chạy hai máy phát điện Alexanderson, một máy phát có tần số sóng mang cao hơn 3 kHz. Trong máy dò của máy thu, hai sóng mang sẽ đập cùng nhau để tạo ra âm 3 kHz, do đó trong tai nghe, tín hiệu Morse sau đó sẽ được nghe dưới dạng một loạt tiếng bíp 3 kHz. Đối với điều này, ông đặt ra thuật ngữ "heterodyne", có nghĩa là "được tạo ra bởi một sự khác biệt" [theo tần số].

Sáng chế[sửa | sửa mã nguồn]

Kỹ sư người Pháp Lucien Lévy đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho nguyên tắc siêu ngoại sai vào tháng 8 năm 1917 với brevet n ° 493660. Edwin Howard Armstrong người Mỹ cũng đã nộp bằng sáng chế vào năm 1917. Levy đã tiết lộ thông tin ban đầu của mình khoảng bảy tháng trước khi Armstrong. Nhà phát minh người Đức Walter H. Schottky cũng đã nộp bằng sáng chế vào năm 1918. Lúc đầu, Hoa Kỳ công nhận Armstrong là nhà phát minh và Bằng sáng chế Hoa Kỳ 1.342.885 của ông được cấp ngày 8 tháng 6 năm 1920. Sau nhiều thay đổi và phiên tòa, Lévy đã được trao bằng sáng chế Hoa Kỳ số 1.734.938, bao gồm bảy trong số chín yêu cầu trong đơn của Armstrong, trong khi hai yêu cầu còn lại được trao cho Alexanderson của GE và Kendall của AT & T

Phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo của máy thu thanh đổi tần[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ đồ khối tổng quát về máy thu đổi tần.Các phần có màu đỏ là khối cao tần,màu xanh là trung tần và tách sóng và màu tím là phần khuếch đại âm tần đưa ra loa

Máy thu thanh đổi tần gồm 6 phần:

-Mạch vào:mạch thu nhận các tín hiệu từ không gian.

-Mạch khuếch đại cao tần:khuếch đại các tín hiệu cao tần từ mạch vào để đưa vào mạch trộn tần.

-Mạch tạo dao động nội và trộn tần:Tại mạch này tạo ra một tần số dao động nội,để trộn với tín hiệu cao tần tạo ra 1 tần số trung gian.

-Mạch khuếch đại trung tần:khuếch đại tín hiệu trung gian lên đủ mạnh để đưa đến mạch tách sóng.

-Mạch tách sóng:tách tín hiệu âm tần ra khỏi sóng mang cao tần.

-Mạch khuếch đại âm tần:khuếch đại tín hiệu âm thanh đủ mạnh đưa ra loa.

Nguyên tắc hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Một chiếc máy thu thanh đổi tần thực nghiệm năm 1923

Mạch vào[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là mạch đầu tiên của máy thu đổi tần,có chức năng thu sóng.Thông thường,các máy thu thanh có hai băng tần trở lên thì mạch vào được chia làm hai phần:thu sóng điều tần[FM] và thu sóng điều biên[AM].Ở phần thu điều tần thì sử dụng ăng ten.

Mạch khuếch đại cao tần[sửa | sửa mã nguồn]

Các tín hiệu cao tần sau khi thu vào sẽ đượ đưa vào mạch khuếch đại. Mục đích là để tín hiệu có cường độ đủ lớn đưa vào mạch trộn tần.

Mạch dao động nội và trộn tần[sửa | sửa mã nguồn]

Tại mạch này,sẽ tạo ra tần số dao động nội[fn].Tín hiệu thu vào[fo] được cho trộn lại với nhau,lúc này ngoài hai tín hiệu trên còn xuất hiện tín hiệu tổng[fn+fo] và hiệu[fn-fo],ta chỉ cần thu tín hiệu hiệu.Đối với sóng AM ta chọn fn>fo,còn với FM chọn fn

Chủ Đề