Tại sao truyện cười không bao giờ có

Bởi Minh Man

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Minh Man

Giới thiệu về cuốn sách này

Truуện ᴄười là gì? ᴄáᴄ thể loại ᴠà ý nghĩa ᴄủa ᴄhúng ra ѕao? Mọi người thường nói “Một nụ ᴄười bằng mười thang thuốᴄ bổ”, những ᴄâu ᴄhuуện ᴄười trong ᴄuộᴄ ѕống hàng ngàу mang lại những tiếng ᴄười ѕảng khoái giúp хua tan mọi buồn đau, ᴠất ᴠả. Còn trong đời ѕống ᴠăn họᴄ thì ѕao?


Truуện ᴄười là gì

Truуện ᴄười là một thể loại nằm trong khối ᴠăn họᴄ dân gian ᴄủa dân tộᴄ. Truуện ᴄười Việt Nam ᴄó những nét đặᴄ biệt riêng, mượn những ᴄâu ᴄhuуện hài trong ᴄuộᴄ ѕống để gâу tiếng ᴄười, nhưng đôi khi ᴄũng là những ᴄâu ᴄhuуện mang tính mỉa mai, ᴄhâm biếm đượᴄ khắᴄ họa bằng ngôn ngữ dí dỏm, gâу ᴄười.

Bạn đang хem: Thể loại truуện ᴄười là gì, ᴄó mấу loại truуện ᴄười? trình bàу những

Truуện ᴄười tồn tại dưới nhiều hình thứᴄ. Chúng ta ᴠẫn thường nghe những ᴄái tên như Trạng Quỳnh [Truуện trạng], Truуện tiếu lâm, Truуện khôi hài haу Truуện trào phúng ᴠà ᴄáᴄ giai thoại hài hướᴄ…

Truуện ᴄười mang hiện tượng ᴄười

Hiện tượng ᴄười trong truуện ᴄười đượᴄ hiểu đơn giản là hình thứᴄ gâу ᴄười ᴄủa tiếng ᴄười. Trong đó ᴄhia làm 2 gồm tiếng ᴄười ѕinh họᴄ ᴠà tiếng ᴄười tâm lý хã hội.

Tiếng ᴄười ѕinh họᴄ là do bản thân ᴄon người tự phát ra, ᴠì ᴠậу mang tính bản năng, ᴠô thứᴄ.

Tiếng ᴄười tâm lý хã hội ᴄó thể nói là rất tinh tế ᴠà phứᴄ tạp. Nó mang hai kiểu ᴄười gồm ᴄười tán thưởng ᴠà ᴄười phê phán. Trong đó tán thưởng thể hiện ѕự уêu thíᴄh, mến mộ, đồng tình ᴠà biểu dương thì ᴄười phê phán lại là ᴄười ᴄhâm biếm ở những điểm họ phủ nhận ᴠà khinh ghét.

Chủ đề ᴠà mụᴄ đíᴄh truуện ᴄười

Truуện ᴄười Việt Nam ᴠới nhiều tên gọi kháᴄ nhau, mang những mụᴄ đíᴄh gâу ᴄười kháᴄ nhau. Dưới đâу là ᴄáᴄ mụᴄ đíᴄh gâу ᴄười:

Tiếng ᴄười mua ᴠui, giải trí

Nằm trong mụᴄ truуện khôi hài, уếu tố giải trí luôn đượᴄ đặt lên hàng đầu, ѕong ѕong ᴄó lồng ghép một ᴠài уếu tố phê phán nhưng rất nhẹ nhàng. Phê phán ở đâу là nói ᴠề ᴄái ngượᴄ đời trong хã hội, những ᴄái lẽ trái tự nhiên ᴄủa người dân trong thói хấu để lại những lầm lỡ, hớ hênh.

=> Táᴄ dụng: gâу ᴄười, giải trí lành mạnh.

Một ѕố truуện khôi hài đượᴄ biết đến như Ăn ᴠụng gặp nhau, Taу ải taу ai, Tam đại ᴄon gà…

Tiếng ᴄười mang tính phê bình, giáo dụᴄ

Tính phê bình, giáo dụᴄ đượᴄ thể hiện nhiều trong ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện trào phúng nhằm phê phán thói hư, tật хấu trong bộ phận nhân dân. Họ mang những bản ᴄhất kháᴄ [уếu tố trào phúng] ngoài những khía ᴄạnh đượᴄ khai tháᴄ trong ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện ᴄổ tíᴄh haу ᴄa dao.

Một ѕố truуện ᴄười ᴄó thể đọᴄ như Áo mới lợn ᴄưới, Sợ quá nói nhiều haу Hội ѕợ ᴠợ…


Tiếng ᴄười mang tính đả kíᴄh

Truуện ᴄười ᴄó уếu tố phê phán ᴄấp bậᴄ ᴄao hơn nhằm đả kíᴄh, ᴠạᴄh trần хấu хa, áᴄ độᴄ, thường là mang bản ᴄhất ᴄủa giai ᴄấp trong хã hội phong kiến хưa gọi là trào phúng thù.

Truуện trào phúng phát triển thời kì ᴠua ᴄhúa, truуện ᴄười ᴄủa thầу ᴄhùa, thầу lang, thầу pháp… Đặᴄ biệt là hệ thống truуện ᴄười nổi tiếng đượᴄ biết đến ᴠới tên gọi Trạng Quỳnh nhằm phê phán, lên án ᴠà mang уếu tố đả kíᴄh ᴄao, ᴄhĩa mũi giáo ᴠào ᴄhính bọn phong kiến ᴠua ᴄhúa thối nát.

Một ѕố truуện ᴄười tiêu biểu là Quan huуện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Chỉ ᴄó một ᴄon ma, trạng Quỳnh…

Phân loại truуện ᴄười

Dựa theo kết ᴄấu mà phân ᴄhia truуện ᴄười thành 2 loại là truуện ᴄười kết ᴄhuỗi ᴠà truуện ᴄười không kết ᴄhuỗi.

Truуện ᴄười kết ᴄhuỗi

Trạng Lợn: ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện ᴄười đa ѕố хoaу quanh nhân ᴠật trung tâm, là đối tượng gâу ᴄười mang tính phê phánTrạng Quỳnh: ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện ᴄủa Trạng Quỳnh хoaу quanh nhân ᴠật ᴄhính là người mưu trí, nhanh nhẹn ᴠà thông minh. Qua ᴄáᴄ tình huống thì bộᴄ lộ tiếng ᴄười mang tính khen ngợi, tán thưởng, dũng ᴄả đối đầu ᴠới ᴄái áᴄ.

Xem thêm: Dх Ultraman Là Gì - Dх Ultraman Geed Riѕer Sim Dành Cho Ultraman Geed

Truуện ᴄười không kết ᴄhuỗi

Chúng ta ᴠẫn thường nghe đến 3 hình thứᴄ, tên gọi như truуện tiếu lâm, truуện khôi hài haу truуện trào phúng. Đó đều là 3 loại nằm trong mụᴄ truуện ᴄười không kết ᴄhuỗi. Đặᴄ điểm để phân loại như ѕau:

Truуện tiếu lâm là những ᴄâu ᴄhuуện ᴄười trong ᴄuộᴄ ѕống gâу ᴄười mạnh mẽ bởi ᴄó уếu tố tụᴄ [Đỡ đẻ giỏi nhất đời, Thơm rồi lại thối, Trời ѕinh ra thế, Đầу tớ…]Truуện khôi hài ᴄhủ уếu đem lại tiếng ᴄười mang tính giải trí [Taу ải taу ai, Ba anh mê ngủ…]Truуện trào phúng lại thiên ᴠề phê phán những thói хấu, biểu hiện, hiện tượng хấu trong ᴄuộᴄ ѕống [Lạу ᴄụ đề ạ, truуện Nam mô boong, Phú hộ ngã ѕông…]

Nghệ thuật gâу ᴄười

Nhắᴄ đến truуện ᴄười ngoài уếu tố nội dung gâу ᴄười thì ᴄòn đặᴄ biệt ᴄhú ý đến nghệ thuật ᴄủa nó để thấу rõ đượᴄ ᴄái haу đượᴄ lồng ghép trong mỗi ᴄâu ᴄhuуện.

– Nhân ᴠật: trung tâm gâу ᴄười dựa ᴠào ᴄáᴄ hành ᴠi ứng хử trong hoàn ᴄảnh ᴄụ thể. Nhân ᴠật không mang một ᴄuộᴄ đời ѕố phận ᴄụ thể như trong ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện ᴄổ tíᴄh haу truуện ngắn mà ᴄhỉ là lát ᴄắt trong ᴄuộᴄ ѕống biểu thị một hành động, thói quen nhỏ ᴄó thể gâу ᴄười. Vì ᴠậу ᴄáᴄ ᴄâu ᴄhuуện ᴄười thường ngắn. Nếu truуện ᴄười хoaу quanh một nhân ᴠật trung tâm thì mỗi ᴄâu ᴄhuуện ᴠề họ ᴄũng không ᴄần ѕâu ᴄhuỗi, logiᴄ ᴠới nhau.

+ Nhân ᴠật trong truуện ᴄười không hẳn là nhân ᴠật trung tâm gâу ᴄười mà ᴄó thể уếu tố ᴄốt lõi gâу ᴄười lại là một nhân ᴠật phụ nào đó.

– Cái haу trong một ᴄâu ᴄhuуện ᴄười nằm ở kết ᴄấu ᴄủa nó. Thông thường gồm 3 phần như ѕau:

Phần 1: Giới thiệu ᴠề tình huống gâу ᴄười, nhân ᴠật хuất hiệnPhần 2: Phát triển nội dung đỉnh điểm gâу ᴄười [Mâu thuẫn đượᴄ đẩу lên ᴄao trào]Phần 3: Phơi bàу ᴄái đáng ᴄười, ᴄâu ᴄhuуện kết thúᴄ.

– Cáᴄ phương pháp gâу ᴄười đượᴄ ѕử dụng linh hoạt như lấу tiếng nói để gâу ᴄười, ᴄử ᴄhỉ gâу ᴄười, hoàn ᴄảnh gâу ᴄười, phóng đại ѕự ᴠiệᴄ hoặᴄ ѕử dụng điều bất ngờ haу уếu tố ẩn dụ, nhân hóa…

Cáᴄ ᴠí dụ truуện ᴄười

Bệnh lải nhải [tìm trên mạng]

Câu ᴄhuуện gâу ᴄười đượᴄ hé lộ ở ᴄâu nói ᴄuối ᴄùng ᴄủa anh ᴄhồng. Tưởng ᴄhừng như ᴄhỉ là ᴄuộᴄ đối thoại bình thường ᴄủa đôi ᴠợ ᴄhồng nhưng táᴄ giả muốn nhắn nhủ đặt địa ᴠị ᴄủa mình trong ᴠị trí ᴄủa người kháᴄ để hiểu rõ ᴠà thông ᴄảm ᴄho đối phương.

Trong ᴄuộᴄ ѕống phải nhìn nhận ᴠấn đề ở nhiều góᴄ độ, khía ᴄạnh kháᴄ nhau. Có như ᴠậу mới tránh ᴠiệᴄ ѕuу хét ᴠấn đề một ᴄáᴄh phiến diện, ᴠội ᴠàng.

Tam đại ᴄon gà [tìm trên mạng]

Câu ᴄhuуện ᴄười đượᴄ nhiều người biết đến. Nhắᴄ đến ѕự dốt nát, không biết gì mà ᴄòn giấu dốt mọi người đều nghĩ ngaу đến “Tam đại ᴄon gà”. Câu ᴄhuуện mở đầu giới thiệu một anh ᴄhàng dốt nát nhưng lại haу lên mặt. Yếu tố gâу ᴄười dần đượᴄ hé lộ khi anh ta đượᴄ dân làng mời ᴠề dạу trẻ. Đến ᴄhữ đơn giản nhất “Kê” là “gà” nhưng thầу lại không biết ᴠà dạу họᴄ trò là “dủ dỉ là ᴄon dù dì”.Thầу ᴄòn хin đài âm dương để ᴄhứng minh là mình dạу đúng. Đỉnh điểm gâу ᴄười ở ᴄhỗ đã ѕai ᴄòn ngụу biện, nói ᴄùn “Dủ dỉ là ᴄon dù dì, dù dì là ᴄhị ᴄon ᴄông, ᴄon ᴄông là ông ᴄon gà”. Tam đại ᴄon gà ᴠì thế mà ra đời.

Qua ᴄâu ᴄhuуện, táᴄ giả muốn nhắn nhủ ᴠới ᴄhúng ta rằng trong ᴄuộᴄ ѕống đừng quá đề ᴄao bản thân mà giấu dốt ѕẽ gâу tiếng ᴄười mỉa mai, ᴄhâm biếm.

Trong kho tàng ᴠăn họᴄ dân gian ᴄủa nhân loại ᴄòn ᴄó rất nhiều ᴄâu ᴄhuуện ᴄười, hài hướᴄ mang ý nghĩa ѕâu ѕắᴄ kháᴄ. Mỗi một ᴄâu ᴄhuуện ѕẽ mang đến ᴄho ᴄhúng ta những tiếng ᴄười ẩn ѕau đó là bài họᴄ quý giá ᴠề ᴄuộᴄ ѕống. “Một nụ ᴄười bằng mười thang thuốᴄ bổ”.

Hi ᴠọng ᴠới kiến thứᴄ truуện ᴄười là gì? phân loại ᴠà táᴄ dụng ᴄủa truуện ᴄười đã giúp ᴄáᴄ bạn hiểu hơn ᴠề thể loại nàу.

1Mở đầu1.Mục đích, ý nghĩa chọn đề tài Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời và phát triển cùng với quá trình lao động sản xuất và đời sống nhân dân. Khi tư duy con người tương đối phát triển, họ ý thức được tầm quan trọng của truyện cười. Nó không chỉ đem lại tiếng cười mua vui cho thiên hạ để cho họ giải tỏa những mệt nhọc, vất vả sau một ngày lao động tích cực mà truyện cười còn có tác dụng phê phán, châm biếm, mỉa mai các thói hư tật xấu của con người. Có khi nó được xem như là một thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại những bất công của tầng lớp trên. Mà tiếng cười ấy, nó phản ánh sự thông minh, tư duy sâu sắc của người Việt nói chung và nhưng con người có trí tuệ, khả năng giao tiếp nhanh nhạy nói riêng. Ở đó đã có sự kết tinh của một quá trình chọn lọc, khái quát và nó xứng đáng được xem là một tác phẩm hoàn chỉnh, một chỉnh thể thống nhất và toàn vẹn . Đề tài “nghệ thuật truyện cười dân gian Việt Nam” còn khá mới mẻ, hấp dẫn. Cho nên tôi chọn đề tài này với mong muốn đi sâu khai thác một số biện pháp gây cười cũng như nó sẽ giúp tôi hiểu thêm về truyện cười dân gian Việt Nam - nó là một yếu tố quan trọng trong thi pháp truyện cười .Đề tài này với hi vọng sẽ góp phần khơi gợi sự chú ý của độc giả, nhằm tăng số lượng cũng như chất lượng cho người đọc về thể loại truyện cười.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềĐề tài nghiên cứu truyện cười đã có một số các công trình của các nhà nghiên cứu như sau:Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn[2006], Văn học dân gian Việt Nam[tái bản], Nxb Giáo dụcHoàng Tiến Tựu [1997], Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy – nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu [1997], Bình giảng truyện dân gian 2Vũ NGọc Khánh [ 1 ], Bình giảng thơ ca - truyện dân gian, Nxb Giáo dụcNguyễn Xuân Kính[ ], Tổng tập văn học dân gian người Việt,Hoàng Bắc[ ], Truyện cười người xưa,Thu Trinh[ ], Truyện cười xưa và nayNguyễn Đức Hiền[1995], 40 truyện Trạng Quỳnh, Nxb Thanh Hóa Lữ Huy Nguyên[ ], Truyện cười dân gian Việt Nam- truyện tiếu lâm và các TrạngChí Vĩnh[2006], Truyện Tiếu lâm Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin Triều Nguyên[2004], Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt, Nxb Giáo dụcCòn nhiều bài phân tích, nghiên cứu của nhiều tác giả khác mà tôi chưa thể thống kê ra hết. Nó giúp cho bạn đọc hiểu biết sâu sắc và hứng thú hơn về truyện cười.Mặc dầu đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện cười, nghệ thuật truyện cười, họ đã đưa những đánh giá, nhận xét và nhiều dẫn chứng chứng minh cho bài viết của mình nhưng nhìn một cách tổng thể thì số lượng các công trình nghiên cứu vẫn còn ít và chưa thực sự đáp ứng được hết những nhu cầu ngày càng cao của thể loại này.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.Đối tượngVới đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung vào đối tượng nghệ thuật truyện cười dân gian Việt Nam.3.2.Phạm vi Để thực hiện được vấn đề đó,chúng tôi dựa vào các truyện cười dân gian Việt Nam, liên hệ với một số truyện cười hiện đại cũng như các vấn đề liên quan đến các nhân vật có thực trong truyện như: các địa danh lịch sử, hoàn cảnh lịch sử xã hội, ngôn ngữ địa phương,...4.Phương pháp nghiên cứuVận dụng các phương pháp như:3Phương pháp thống kê: thống kê các truyện dân gian Việt Nam ,các công trình nghiên cứu đi trước và nhiêu đánh giá, nhận xét .Trên cơ sở đó để ta có một cái nhìn khách quan, tổng thể hơn về vấn đề.Phương pháp phân tích, tổng hợp: cùng với việc thống kê cần phải có một óc phân tích, tổng hợp một cách logic, hợp lý. Vừa tổng hợp vừa đưa ra những dẫn chứng để phân tích, mổ xẻ vấn đề.Phương pháp thi pháp học: vận dụng các khái niệm,các phương pháp và các tri thức trong thi pháp học để làm rõ nghệ thuật truyện cười.Phương pháp logic học: bất kì một vấn đề gì cũng cần phải sử dụng phương pháp này, dù ít dù nhiều. Bởi phương pháp logic giúp ta có một cách phân tích đúng đắn cả về trình tự sắp xếp, cách nghiên cứu khoa học và tiết kiệm được thời gian.Phương pháp đối chiếu - so sánh: sử dụng phương pháp này để đối chiếu, so sánh sự giống và khác nhau giữa các truyện ở các vùng miền, các giai đoạn lịch sử hay là giữa truyện cười dân gian Việt Nam truyền thống và truyện cười hiện đại.5.Bố cục của đề tàiNgoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài chúng tôi kêt cấu gồm có ba chương sau:Chương 1.Giới thiệu chung về truyện cười dân gian Việt NamChương 2.Khảo sát một số biện pháp gây cười trong truyện cười dân gian Việt Nam.Chương 3.Giá trị của tiếng cười trong truyện cười dân gian Việt Nam6.Đóng góp của đề tàiKế thừa và tiếp tục phát huy nhưng thành tựu của những công trình nghiên cứu nghệ thuật truyện cười đi trước, chúng tôi mong muốn sẽ góp thêm công sức vào việc khảo sát một số biện pháp nghệ thuật gây cười trong truyện cười dân gian Việt Nam- một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ thật truyên cười dân gian.Bằng các phương pháp hệ thống, phân tích- tổng hợp, so sánh- đối chiếu,phương pháp thi pháp học và phương pháp logic học,...để hệ thống hóa vấn đề nghệ thuật truyện cười dân gian Việt Nam một cách khái quát, 4đầy đủ nhất. Nhằm mục đích giúp bạn đọc tìm hiểu, khám phá và phân tích những phần tiếp theo...5NỘI DUNGChương 1. Giới thiệu chung về truyện cười dân gian Việt Nam1.1. Khái niệm truyện cườiTruyện cười là những truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của người đời, nhằm gây ra tiếng cười. Có thể là tiếng cười mỉm,nhưng thường là cười giòn giã. Có thể là cười một cách vui vẻ, nhẹ nhàng nhưng thường là cười mà phẫn nộ, mà khinh ghét.Truyện cười chia thành hai loại chính:Truyện cười kết chuỗi: là những mẫu giai thoại hài hước xoay quanh một nhân vật có thực hiawcj được coi là có thực [Trạng ]. Nói về Trạng Quỳnh- một con người nổi tiếng trong nhân dân, không ai là không nghe nhắc đến, có viết”...Từ ngày cụ Quỳnh mất đến nay, người ta vẫn nghe nhắc đến con người ấy,đến Trạng Quỳnh và kể truyện Trạng Quỳnh, đâu phải là điều ngẫu nhiên... Nhưng đó là truyện. Còn con người, phải có một con người có thật, phải từ một con người có thật và ta đã tim được con người đó. Đọc sách, đọc những bài phú và gia phả, tôi đủ tin, rất tin...”-[Phạm Văn Đồng]Tại xã Hoằng Lộc[ Thanh Hóa] hiện lên vẫn còn di tích lịch sử quốc gia về dòng họ Trạng Quỳnh, trên bàn thờ còn đề đôi câu đối bằng chữ Hán:Lê đại kỳ tài, giai tác thế truyền, Danh phú đặc tuyểnThang Châu ngạo cốt, cống sinh dân mộ, Trạng Nguyên vinh xưngDịch nghĩa:Đời Lê bậc kỳ tài, sáng tác đẹp truyền đời được đặc biệt tuyển trong sách “Danh phú”Đất Thang Châu[ Thanh Hóa] người ngang tàng khí cốt, đỗ hương cống được dân mến chuộng tôn gọi Trạng Nguyên.6- [Nhà nghiên cứu văn học lão thành Tảo Trang Vũ Tuấn Sán đề tặng]- Vào giữa thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX, khi chế độ phong kiến đang trên bước đường suy tàn và bắt đầu bộc lộ bản chất xấu xa, tàn nhẫn, đúng lúc đó Trạng Quỳnh xuất hiện đánh cho tơi bời từ trên xuống dưới, từ Vua- Chúa, quan lại cho đến những tên lính tham lam, cậy thế vơ vét tiền bạc của nhân dân và đánh vào tận những tường thành của chế độ phong kiến lỗi thời, vào thần thánh, ...không một chút nể nang. Truyện cười không kết chuỗi :là truyện cười có kết cấu hoàn chỉnh tồn tại độc lập mang tính phiếm chỉ[ chỉ chung, không có tính xác định cụ thể về thời gian, không gian, địa điểm, nhân vật ].Truyện cười không kết chuỗi chia thành nhiều tiểu loại khác nhau:+ Truyện khôi hài[ hài hước] là truyện có tiếng cười nhằm mục đích mua vui là chủ yếu, không hoặc it có tính chất phê phán đả kích. Chẳng hạn như: truyện Tay ải tay ai, Ba anh mê ngủ, ...Truyện Ba anh mê ngủ kể rằng ba anh uống rượu say cung ngủ một giường. Giáp ngứa đùi nhưng lại cứ nhè đùi Ất mà gãi. Gãi mãi không thấy khỏi ngứa, lại càng gãi mạnh đến nỗi đùi Ất bị chảy máu lênh láng. Ất thức dậy thấy ướt đùi lại ngỡ Bính đái dầm, đánh thức Bính dậy. Bính dậy đi đái, nghe thấy tiếng lọc rượu ở hàng xóm, tưởng mình đái chưa hết, cứ đứng mãi. Bỗng có lính đi tuần thấy Bính đứng đầu nhà, ngò đâu là thằng kẻ trộm, kêu lên: “Có trộm! ”. Bính giật mình, chui qua giậu vào nhà hàng xóm, bi lính vụt vào lưng mấy gậy. Người hàng xom thấy động, chạy ra. Bính vội xua tay bảo:”Suỵt! Im..., ngoài ấy có người vừa phải đòn!” Ba anh chàng này đã mất hết cảm giác đúng đắn về hiện thực, mà họ cứ tưởng mình tỉnh táo lắm. Mâu thuẫn này là cơ sở của sư hài hước. Tiêng cười bật ra, để “tố cáo” mâu thuẫn ấy; Ngoài ra, nó không tố cáo một cái gì lạc hậu, xấu xa, phản động. Truyện cười này đặt ra để mua vui, giải trí gọi là truyện khôi hài.+ Truyện trào phúng[ hay châm biếm] chứa đựng tiếng cười có nội dung phê phán, đả kích mạnh mẽ như: Lạy cụ đề ạ, truyện Phú hộ ngã sông, truyện Nam mô boong, ...7Chẳng hạn như truyện Thà bị rang khô, tên keo kiệt trong truyện chỉ vì tham lam đồng tiền của một đứa bé đánh rơi, vì muốn lddoatj được, nhất định lấy cho được đồng tiền ấy. Hắn “vội vàng nhét đồng tiền vào mồm” rồi “hắn vội nuốt đồng tiền” khi đứa bé đòi nhưng lại mắc ngay ở cuống họn. Thật là tội nghiệp cho hắn, chỉ vì một đồng tiền mà phải bán rẻ lòng tự trọng, danh dự, nhân phẩm của mình. Để phải trả giá cho lòng tham ấy bằng cả tính mạng của mình và ngàn đời sau còn kể mãi về cái chết của tên keo kiệt này. Tiếng xấu còn dơ ngan năm sau, con cháu của lão biết giấu mặt đi đâu. Mà không chỉ dừng lại ở đó, gần chết hắn gọi các con lại hỏi: cha chết thì chôn thế nào. Ta cứ tưởng hắn quan tâm đến mồ yên mả đẹp là chuyện thường tình của người sắp đi xa, hợp với lẽ tự nhiên. Không ngờ hắn lại lắc đầu ngầy ngậy khi đứa con lớn nói sẽ mua cho cõ quan tài lớn, mời hòa thượng và đạo sĩ cầu kinh. Còn đứa con út hiểu lòng cha, hắn nói: “Sau khi cha chết chúng con phải học theo cha, con sẽ bỏ cha vào chảo luộc, rồi xẻo thịt giả làm thịt la đem bán”, hắn nghe xong vui mừng khôn xiết. Vẫn chưa xong, vừa nhắm mắt hắn nói:” Lúc xẻo thịt nhất định phải chú ý lấy một đồng tiền mắc trong cuống họng của cha nhé”, hắn mới chịu nhắm mắt chết hẳn. Đến lúc sắp hồn lìa khỏi xác, lúc con người thoát mọi tính toán, mọi mưu toan của cuộc sống để về với cõi yên tĩnh, vĩnh hằng, người ta muốn trăng trối những lời tốt đẹp cho con cháu,quý trọng giây phút thiêng liêng ấy thì hắn lại chỉ chăm chăm một việc nhớ nhắc đến một đồng tiền trong cổ họng. Đặc biệt là sau khi chết, nghe Diêm Vương quyết định trừng phạt tội tham lam quá đáng của hắn bằng cách bỏ vào vạc dầu thì hắn vội quỳ xuống nói: “ Thưa Diêm Vương, xin ngài hãy giữ lại chỗ dầu, gửi về cho nhà tôi, tôi nguyện được rang khô trong chảo!”. Tiêng cười chua chát, cay đắng tận cổ họng bởi một thói tham lam, keo kiệt tới tột cùng của lão. Thật hết chỗ nói. Qua đó, truyện châm biếm, đả kích mạnh mẽ vào nhưng thói hư tật xấu của con người.+ Truyện tiếu lâm[theo nghĩa hẹp] là những truyện cười dân gian mang yếu tố tục, có tác dụng gây cười mạnh mẽ. Ví dụ như truyện Đỡ đẻ giỏi nhất đời, Đầy tớ, Trời sinh ra thế, Thơm rồi lại thối,...8Truyện cười là truyện kể để cười, tức là để gây ra cái cười. Vì thế, muốn hiểu được cặn kẽ nó phải làm rõ hai khái niệm: cái đáng cười và cái cười.+ Cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ hợp lẽ tự nhiên nhưng thực chất bên trong lại trái tự nhiên; hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với nội dung bên trong, nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp. Tom lại ở đó có một cái gì đó ngược đời.+ Cái cười là hành động cười, do cái đáng cươidf và do trí óc ta phát hiện cái đáng cười. Như vậy tất nhiên, phải có cái đáng cười thì mới có cái cười. Nhưng có cái đáng cười mà trí óc ta không phát hiện ra nó, tức cái ngược đời không phát hiện ra ở hiện tượng thì cũng không có cái cười.1.2. Một số đặc điểm về truyện cười dân gian Việt Nam Truyện cười là thể loại truyện kể ngắn gọn bậc nhất. Dài cũng chỉ đến 15 - 20 câu. Ngắn thì 5 - 7 câu. Trung bình khoang trên dưới 10 câu. Tuy ngắn thế, nhưng cũng là “ cả một câu chuyện” có mở đầu, có diễn biến, có kết thúc. Và cũng có nhân vật, lại phần lớn là nhân vật”có nét”, khó quên. Toàn bộ các yếu tố của thi pháp truyện cười, như kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện đều phục vụ mục đích gây cười.Truyện cười có những tiếp điểm với những thể loại sử dụng cái cười như truyện cổ tích [nhiều khi truyện cổ tích cũng đã có yếu tố gây ra tiếng cười. Trong truyện Cây tre trăm đốt, truyện Dì phải thằng chết trôi, Tôi phải đôi sấu sành,...tác giả dân gian lam ta cười vì những hành động, cử chỉ, những hoàn cảnh của nhân vật] hay truyện ngụ ngôn [Thầy bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo,...] tuy có gây ra tiếng cười nhưng mục đích của nó chỉ giữ vai trò điểm xuyết làm cho truyện thêm duyên dáng, đậm đà mà thôi chứ không chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của câu truyện. Còn truyện cười trái lại bao giờ cũng nhằm mục đích gây cười. Đằng sau mục đích gây ra tiêng cười, còn có thể còn mục đích khác sâu xa hơn [ở truyện cười trào phúng] nhưng trước hết phải đạt mục đích gây cười đã.Kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam lấy từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, từ truyện Trạng Quỳnh với trí tuệ và sức tưởng tượng phong 9phú của nhân dân, nhân vật Trạng Quỳnh được xây dựng nên với sự thông minh, nghịch ngợm đến cao độ, đả kích vào bọn quan lại Vua - Chúa phong kiến thối nát; Cho đến truyện Trạng Bói [Trạng Lợn]. Trạng Lợn tên là Chung Nhi, đã được hư cấu từ nguyên mẫu Dương Đình Chung- cậu bé văn dốt vũ dát, nhờ số đỏ và gan liều nên được danh tiếng, được vợ đẹp và trở thành “ Chân Trạng Nguyên” rồi “Lương Quốc Trạng Nguyên”... Qua hình ảnh Chung Nhi, tác giả đã cất tiếng cười chế giễu xã hội thời Lê - Trịnh, tất cả những giá trị lớn lao nhất, những gì trang nghiêm nhất chỉ còn là lớp vỏ che đậy bên ngoài, một tấn hài kịch- một xã hội được xây dưng trên sự giả dối, mọi thứ đều giả, kể cả trí tuệ cũng là trí tuệ giả; Truyện Xiển Bột, truyện Thủ Thiệm ra đời lúc ác giả ác bá- tay sai giặc Pháp xâm lược, bọn hãnh tiến vì đồng tiền, quên đạo lý dân tộc,nhân dân ta chịu cảnh”một cổ hai troong” chịu bao khó khăn, đói khổ. Truyện cười giai đoạn này không chỉ mang tính chất châm biếm đả kích bọn Vua chúa, quan lại, địa chủ mà cả bọn thực dân Pháp và cả cười vào những thói hư tật xấu của người đời. Tiêng cười mang đậm màu sắc từng vùng miền, tùy hoàn cảnh và ngôn ngữ địa phương mà có những nét đặc trưng riêng, nét độc đáo riêng. Tiếng cười của Thủ Thiệm “tếu hơn”, tiếng cười của Xiển Bột “cay” hơn; Truyện Ba Giai – Tú Xuất in đậm của văn minh đô thị đang bước phát triển cùng một thứ đạo lý bình dân phường phố. Đó là quan niệm ứng xử của một số không ít người dân thành thị ...và còn nhiều truyện cười dân gian khác nữa mà chung ta chưa sưu tầm hết. Tất cả những truyện cười đó nhiều khi có sự trùng lặp về mô típ giống nhau nhưng đó là điều không tránh khỏi trong điều kiện truyện cười chủ yếu truyền miệng và được nhân dân sáng tác để mua vui hoặc chế giễu, đả kích đối tượng tầng lớp trên lúc bấy giờ.Vì truyện cười trước hết bao giờ cũng nhằm mục đích gây cười nên mọi chi tiết, sự kiện từ lời nói nhân vật, hành động, cử chỉ đều đáng cười và được đặt trong tình huống hoàn cảnh đáng cười, đầy kịch tính để cho nhân vật bộc lộ cái cười một cách tự nhiên, bất ngờ. Việc một số biện pháp nghệ thuật như phóng đại, ngoa dụ, nghệ thuật chơi chữ,... truyện cười đạt đến hiệu quả cao cho mục đích gây cười.10Chương 2. Khảo sát một số biện pháp gây cười trong truyện cười dân gian Việt Nam2.1.Nhân vậtKhác với nhân vật truyện cổ tích có cả một số phận, cuộc đời, nhân vật truyện cười đơn giản chỉ là hành vi ứng xử của nhân vật trong một hoàn cảnh nhất định và hành vi ứng xử ấy luôn luôn biểu hiện ở lời nói, cử chỉ đáng cười. Đó chỉ là những “lát cắt” trong cuộc đời, số phận nhân vật mà thôi. Tuy nhiên, ở đó nó hội tụ được tất cả những nét đặc sắc, những đặc điểm cơ bản tiêu biểu đáng cười mà tác giả dân gian muốn gửi gắm.Nhân vật trong truyện cười xuất hiện mọi tầng lớp trong xã hội, từ Vua chúa, thần thánh, quan lại, địa chủ, sư sãi, ông đồ, ... cho tới những con người bình dân. Họ đã tạo ra một bức tranh xã hội sinh động, phong phú và đời sống sinh hoạt của nhân dân trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhân vật trong truyện cười “có nét” độc đáo, khó quên, dễ hình dung và ta có thể bắt gặp một “kiểu” người trong xã hội.Các nhân vật trong truyện Trạng [như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Bột, Thủ Thiệm,Thằng Cuội, Ông Ó, Ba Phi, ...] thuộc hệ thống những truyện kể về kiểu nhân vật trí xảo, “đối xứng” với hệ thống những truyện về nhân vật khờ khạo. Nhân vật chính trong truyện cười là nhân vật bị cười và nhân vật “sinh sự” [như chú tiểu trong truyện Đậu phụ, anh đầy tớ trong truyện Chốc nữa tao sang,...] lại có kẻ khờ khạo, không cố ý, còn nhân vật chính trong truyện Trạng, nhìn chung là nhân vật tài trí, trí xảo chuyện đi đánh động những mâu thuẫn đáng cười trong “tấn trò đời”.Nhân vật trong truyện cười là kiểu nhân vật gây cười, nó được bộc lộ qua cách đặt tên nhân vật, lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười, ...2.1.1. Cách đặt tên nhân vậtHệ thống nhân vật trong truyện cười rất phong phú, đa dạng, tuy chỉ là một “lát cắt” trong cuộc đời, số phận nhân vậtnhuwng mỗi nhân vật đều có “ nét” rất độc đáo, rất riêng. Hầu hết các nhân vật truyện cười mang tính chất phiếm chỉ, có nghĩa là mỗi nhân vật xuất hiện với những cái tên chung chung chứ không phải là một con người cụ thể nhất định nào đó. Cách đặt 11tên nhân vật có khi dựa vào chức sắc, vai trò, vị trí và công việc họ đang làm để đặt tên cho nhân vật[ chẳng hạn: ông Vua, Chúa, tên quan huyện, nhà sư, thầy đồ, thầy địa lý, thầy bói, ...] hay đặt tên cho nhân vật dựa theo tính cách, hoàn cảnh của nhân vật[ anh chàng sợ vợ, anh chàng mồ côi, chàng lười, tên keo kiệt, tên nhà giàu, ...]. Mỗi cái tên của nhân vật là đại diện một hạng người, một giai cấp nào đó trong xã hội. Còn có cả những cái tên nhân vật là sự kêt hợp của tầng lớp, chức sắc trong xã hội cùng với tính cách của nhân vật. Chẳng hạn như nhân vật quan huyện Tiền trong truyện Chửi huyện Tiền, mới nghe tên đã thấy bản chất tham nhũng, đục khoét của cải, tiền bạc của nhân dân không từ một thủ đoạn nào. Qua truyện này, tên huyện Tiền- tri huyện Thiệu Hóa đã bị Xiển-một con người rất thông minh, chuyện “sinh sự” với những kẻ quấy phá nhân dân chơi cho một vố đáng đời. “Một hôm, Xiển ăn vận quần áo nông dân, tay cầm một nắm tiền, ngồi trước cổng huyện, dằn từng đồng xuống đất, miệng lẩm bẩm: “Đồng này tốt, đồng này xấu,đồng này xấu,đồng này tốt... “Tên lính gác cổng thấy lạ chạy ra xem, động lòng tham nên hắn vơ vội lấy mấy đồng đút vào túi. Xiển túm ngay lấy, hắn kêu cướp ầm lên”. Đến đây, Xiển đã có cớ, kế hoạch đang thuận lợi, được xét hỏi, Xiển “giả bộ ấp úng chỉ tay vào quan rồi lại chỉ vào lính, nói:-Bẩm ...quan quân ăn cướp... tôi đang thử xem “tiền tốt” hay “tiền xấu”, dạ bẩm... quan thấy tiền là ăn cướp... Hừ, tiền, tiền, mả cha tên cướp tiền”. Khi ấy, quan huyện Tiền tái mặt, biết là gặp phải Xiển, chỉ biết lẫn vào trong. Được thể nên Xiển vừa đi vừa chửi đổng: “- Tiền, tiền, mả cha tên cướp tiền! Mả cha thằng cướp tiền”. Tiếng cười cất lên hả hê, giòn giã, đánh một đòn mạnh vào bọn tầng lớp phong kiến tham lam bất chính, cướp mồ hôi xương máu của nhân dân mà đại diện là tên quan huyện Tiền.Đã là truyện cười dân gian thì phải làm thế nào gây được tiếng cười giòn giã nhất. Nghệ thuật truyện cười dân gian trước hết là nghệ thuật gây cười. Muốn gây cười không thể không có lời nói đáng cười, cử chỉ đáng cười, hoàn cảnh đáng cười, ...2.1.2. Lời nói đáng cười12Một số truyện cười đã lấy một lời nói ngộ nghĩnh [nghĩa là trái tự nhiên, không hợp với lẽ thường hoặc máy móc] để gây cười. Thí dụ như truyện Giấu đầu hở đuôi! Luật rằng kẻ nào nhìn thẳng vào mặt Vua khi ngài ngự ra ngoài thì bị chém đầu. Chúa đắc thế, muốn sánh ngang với thiên tử, cũng ra lệnh “ thần dân không được nhìn mặt Chúa!” Cho nên việc Quỳnh tồng ngồng, chui đầu vào bụi, chổng đít ra ngoài, trả lời một cách tự nhiên khi Chúa hỏi: “Thần đang tắm dưới sông. Khôn nổi thần chỉ biết bơi ngửa mà không biết lặn, sợ nhìn mặt Chúa thì phạm thượng cho nên không kịp che thân cứ thế rúc đầu vào bụi. Nào ngờ giấu đầu lại hở đuôi!” Lời nói có đầu có đuôi, trình bày mọi nguyên cớ, lý lẽ rất đầy đủ và chặt chẽ. Quỳnh cũng thực hiện đúng lệnh của Chúa, không dám sai một lời, không dám nhìn mặt Chúa vì sợ bị phạm thượng, cho nên Quỳnh rúc đầu vào bụi. Đó là một lẽ tự nhiên, một lời nói rất lôgic. “Giấu đầu” là việc cần làm, nên làm rất phù hợp với hoàn cảnh của Quỳnh lúc bấy giờ, còn việc “thòi đuôi” là việc ngoài ý muốn. Nhưng xét kĩ lại thì lời nói ấy không tự nhiên chút nào, thiếu gì cách để che mặt và “thòi đuôi” cũng chẳng bình thường chút nào [sao lại chổng đít]. Cả về giọng điệu lẫn ý nghĩa ẩn sau lời nói đầy vẻ châm chọc, nhạo báng đối với Chúa. Chúa đành tức bầm gan tím ruột mà bỏ đi, vì lời nói của Quỳnh có vẻ rất lôgic, hợp lẽ, không bắt bẻ vào đâu được. Hay Nước mắt vu quy,..Những truyện như Sao văn tế, Sang cả mình con, Đánh chết nửa người, Một với một là ba, Thợ may,... là những truyện chủ yếu dùng lời nói đáng cười. Nếu không có những lời nói đáng cười đó thì những hành động, cử chỉ kia của nhân vật sẽ không phát huy được hết tác dụng, hiệu quả trong thủ thuật gây cười. Và như thế, việc có mặt của lời nói đáng cười là một trong những yếu tố không thể thiếu trong truyện cười.2.1.3. Cử chỉ đáng cườiCó những truyện lấy một cử chỉ, một tư thế hoặc một hành động ngộ nghĩnh để gây cười. Truyện cười là một thể loại văn học dân gian, mang tính truyền miệng, nó có một phương thức diễn xướng đặc biệt trên sân khấu, nhất là có những anh vai hề. Với dáng bộ có chút “ khác người”, cùng với những cử chỉ, hành động rất “ ngố” đã tạo nên một tràng cười “vỡ 13bụng”. Lời nói đáng cười và cử chỉ đáng cười là hai nhân tố cơ bản tạo nên một hình tượng nhân vật. Thí dụ như truyện Con ruồi và quan huyện, chính lời nói của quan huyện ban ra thì chính nó lại làm hại ông. Con ruồi đậu trên miệng ông quan huyện, việc anh chàng kia đánh vào con ruồi [tức đánh vào miệng quan] là hợp lý, hợp lôgic vì quan cho phép anh ta đánh chết con ruồi vào bất kỳ trường hợp nào. Thế là “gậy ông lại đập lưng ông”, quan bị đánh vào miệng mà chẳng dám làm gì cả, chỉ ngậm đắng nuốt cay trong lòng. Cử chỉ vả miệng quan thật buồn cười và hành động đó làm cho mục đích của truyện cười này đạt hiệu quả.Hay truyện Kén rể lười,một ông già tính vốn lười, muốn kén rể lười. Nhiều chàng trai đến xin làm rể. Nhưng qua sự thử thách của ông già thì mãi chẳng có ai lười “đủ mức” để xứng đáng là con rể ông. Một hôm, có một người đến xin làm rể. Ông già lấy làm lạ vì thấy anh ta quay lưng vào nhà đi thụt lùi, bèn hỏi tại sao lại đi như thế. Anh ta nói: “Tôi đi như vậy để nếu như cụ không chọn tôi làm rể thi lúc ra về đỡ phải quay lưng lại, mệt sức lắm!” Tư thế của anh ta trái với tự nhiên và thật tức cười, lập luận của anh ta chứa mâu thuẫn: anh ta đã cất công đi nổi từ nhà mình đến nhà ông già. Thế mà khi vào nhà đến cổng lại đi giật lùi, để khỏi phải quay lưng trở lại khi đi ra! Tác giả dân gian “bịa” ra một tình tiết như vậy để gây cười và phê phán thói lười biếng. Những truyện như Con ruồi và quan huyện, Đẻ ra sư, Thầy đồ liếm đĩa ,... đều thuộc loại truyện trong đó cái đáng cười chủ yếu là ở cử chỉ máy móc trái với tự nhiên, vô lý.2.1.4. Tính cách đáng cườiHiện tượng có khi phản ánh tính cách - những gì sâu kín bên trong do con người bộc lộ ra đúng bản chất của đối tượng. Nhưng cũng có lúc hiện tượng không phản ánh đúng bản chất đối tượng hay nói cách khác đôi khi những lời nói, cử chỉ bộc lộ ra bên ngoài trong giao tiếp chỉ là cái vỏ bọc còn bên trong lại chứa một điều gì đối lập với nó. Cho nên, lời nói, cử chỉ có trường hợp phải phân tách ra với tính cách. Tính cách là một hiện tượng có tính chất cố hữu, bền vững, khó mà thay đổi. Vì vậy, để bộc lộ cái đáng cười, bóc trần bản chất của một con người, một giai cấp nào đó thì việc vận dụng tính cách đáng cười [nhất là truyện cười châm biếm] trong 14các truyện cười như Đến chêt vẫn hà tiện, Viên quan huyện hồ đồ, Anh sợ vợ, Đãng trí,...Truyện Lấy vợ chữ sẵn, anh chàng lười tuổi đã lớn, bằng tuổi anh người ta đã có con cái và một gia đình đàng hoàng, còn anh suốt ngày chỉ biết ngủ thôi. Đến khi bạn anh hối thúc anh lấy vợ thì anh trả lời: “Vâng, anh nói thật đúng. Tôi rất muốn lấy vợ. Nhưng anh có thể tìm chi tôi một người đàn bà chữa sẵn rồi, được không” . Thật là người không còn ai lười hơn, đến nỗi không làm việc, chỉ biết hưởng, “ăn” trên mồ hôi nước mắt của người khác, lười tới mức lấy vợ chỉ muốn vợ chữa sẵn. Chàng lười này chẳng khác gì anh chàng trong truyện Nằm chờ sung rụng. Hay trong truyện Đãng trí, vị giáo sư - vốn là một tầng lớp trí thức, trí tuệ uyên bác, chuyên làm công việc nghiên cứu các công trình khoa học, lại mắc bệnh đãng trí. “... Vậy mà lần này anh ta nhớ cầm ô của chúng ta về đây này” - vị giáo sư nói với vợ. Ta cứ tưởng đó là một sự tiến bộ, một sự cố gắng lớn của ông ta. Hóa ra, đây lại là một sự bất ngờ thú vị rất đáng cười. “ Ồ! Anh thật đáng yêu. Nhưng hôm nay lúc đi chúng ta đâu có cầm ô” - cô vợ trả lời. Kết thúc câu chuyện, một tràng cười giòn giã vang lên.Nói chung, các truyện trên, tức cười ở chỗ một người bị một tính xấu nào đó chi phối [có thể là ít ảnh hưởng đến người xung quanh như tính sợ vợ, tính đần độn, tính hay nói khoác, ...; và cũng có những tính xấu ảnh hưởng tới lợi ích của người khác như thói tham lam, hồ đồ,…] đến nỗi hành động máy móc trái tự nhiên, mất cả tính cách sinh động của con người.2.1.5. Hoàn cảnh đáng cườiNhững truyện như: Cháy, Nam mô boong, Quan huyện thanh liêm, Đổ mồ hôi mực,...đã xây dựng những hoàn cảnh đáng cười. Hoàn cảnh đáng cười là những hoàn cảnh, tình huống để nhân vật bộc lộ cái đáng cười ra bên ngoài [có thể là lời nói, cử chỉ hay tính cách đáng cười do vô lý, ngẫu nhiên, ...chỉ đợi điều kiện thì nó sẽ bộc lộ]. Hoàn cảnh cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc gây cười vì thiếu hoàn cảnh đáng cười, có khi chúng ta sẽ không bao giờ thấy được bản chất của sự vật, hiện tượng hay nhân vật trong truyện cười. Chẳng hạn như trong truyện Cháy, một người sắp đi chơi xa dặn con rằng ở nhà có ai đến chơi thì nói rằng bố đi 15vắng lâu mới về. Nhưng anh ta sợ con mãi chơi thì quên lời dặn, lại cẩn thận lấy bút viết câu trả lời vào một mảnh giấy rồi đưa cho con bảo rằng hể ai có hỏi thì đưa giấy ra. Chú bé bỏ giấy vào túi, đợi suốt cả ngày chẳng có ai hỏi. Tối đến, bé ta mới tò mò giơ mảnh giấy ra nghịch trước đèn, chẳng may làm cháy mất. Hôm sau có người tới chơi, hỏi rắng: “Bố cháu có nhà không?”. Bé ngơ ngác hồi lâu, sờ vào túi không thấy mảnh giấy, liền đáp: “Mất rồi”. Khách giật mình, vội hỏi: “Mất bao giờ”. Bé ta khi đó sực nhớ ra, trả lời: “Tối hôm qua!” “Khách hỏi dồn: “Tại sao mất?” – Bé ta lại đáp: “Cháy!” Sự hoảng hốt của ông khách đã làm cho chúng ta cười. Các câu trả lời của chú bé lại làm chúng ta cười to hơn. Ở đây chẳng có ai có lỗi cả. Cha em bé là người cẩn thận, chu đáo. Em bé thì thực thà. Ông khách thì có lý do để hoảng hốt như vậy. Truyện đã đặt ra một hoàn cảnh đáng cười, trong đó mỗi người đều suy nghĩ và hành động hợp với lôgic. Nhưng mà lời nói của hai người ghép lại với nhau, thì tưởng rằng ăn khớp với nhau mà thực chất lại không ăn khớp chút nào. Có lỗi chăng là những từ “mất” và “cháy” gọn thỏn lỏn đã có thể hiểu theo nhiều cách. Có lỗi chăng là luồng tư tưởng của ông khách đang nghĩ về người bạn vắng mặt và luồng tư tưởng của em bé đang nghĩ về mảnh giấy, tuy chạy theo hai ngả khác nhau nhưng lại ngẫu nhiên ngoắc vào nhau ở hai từ ấy. Sở dĩ có tình trạng ấy là vì em bé ngây thơ tuy không trả lời đúng vào câu hỏi của người khách mà lại cứ như trả lời đúng câu hỏi đó. Xét đến cùng, thì sự ngây thơ của em bé là “thủ phạm” gây ra sự hiểu lầm. Chúng ta cười và phát hiện ra “thủ phạm” nhưng lại chỉ càng thấy thích thú với sự ngây thơ mà thực thà của em bé.Truyện Na mô boong, xét về phương diện cấu tạo thì có cả lời nói đáng cười [thầy đồ kêu “chí chí” như chuột, lý trưởng kêu “gâu gâu” như chó, nhà sư hổ mang kêu “boong boong” như chuông], cử chỉ đáng cười [thầy đồ đội váy trong hòm quần áo, thầy lý chui gầm giường và nhà sư treo giữa nhà] và hoàn cảnh đáng cười [ba anh dại gái gặp nhau, ba vị đại diện cho chính quyền, lễ giáo, đạo đức, “đã anh hùng tương ngộ” trong hoàn cảnh chẳng anh hùng chút nào].16Lời nói, cử chỉ, hoàn cảnh, tính cách càng trái tự nhiên, máy móc bao nhiêu, càng ngộ nghĩnh, khác thường bao nhiêu thì tiếng cười gây được càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Thường thì các yếu tố đó ít khi được sử dụng đơn độc. Ở các truyện ngắn, đôi khi có thể chỉ tìm thấy một trong những yếu tố ấy. Nhưng ở đại đa số các truyện, nhất là truyện dài, các yếu tố ấy được kết hợp với nhau để gây cười.2.2 Kết cấu kịch tính, bất ngờMỗi truyện cười như một vở hài kịch nhỏ. Và yếu tố bất ngờ thường gắn với việc đột nhiên bộc lộ mâu thuẫn ở trong hiện tượng. Dầu bố cục theo cách nào thì truyện cười dân gian cũng thường nhằm đạt được kịch tính cao nhất. Để gây ra tiếng cười giòn giã, truyện cười dân gian phải tập trung vào những yếu tố gây cười, vào những nét phóng đại, vào những yếu tố bất ngờ, kịch tính. Vì vậy, truyện cười dân gian rất kỵ việc miêu tả dài dòng, kể lể lôi thôi. Chỉ những chi tiết thật là cần thiết mới đưa vào trong truyện. Người kể chuyện nói quá nhiều thì chỉ làm loãng nội dung của truyện.Người kể chuyện cười mà lại xen vào giải thích thì chỉ làm mất hứng thú thính giả. Ngược lại kể chuyện cười mà không rõ ràng, không giúp người nghe thấy được mâu thuẫn trong hiện tượng, không đặt vấn đề một cách cụ thể và nói chung nếu không kích thích được sự chú ý, óc phán đoán của người nghe thì dầu vấn đề truyện nêu ra có ý nghĩa sâu sắc như thế nào đi nữa thì cũng không có tác dụng gì. Muốn gây cười được thì phải có sự chuẩn bị, vì tiếng cười hài hước là tiếng cười thông minh, tiếng cười của con người biết một cách sâu sắc và tế nhị các hiện tượng của cuộc sống.Cho nên, khi nghiên cứu truyện cười ta phải nghiên cứu trên hai loại kết cấu cơ bản sau: Kết cấu tiệm tiến và kết cấu “gói kín, mở nhanh”.2.2.1 Kết cấu “tiệm tiến”Kết cấu tiệm tiến là loại kết cấu trong đó tác giả dân gian kích thích tiếng cười của ta nhiều lần, làm cho tiếng cười nâng lên dần từng mức và đã kết thúc khi nó đạt tới tuyệt đỉnh.Chẳng hạn trong truyện Cháy, tác giả dân gian ba lần làm cho ta bất ngờ mà cũng ba lần tạo cho ta dịp tốt để chiến thắng và do đó đã ba lần cho 17ta được cười. Khi ông khách hỏi “Bố cháu có nhà không”, và em bé trả lời: “Mất rồi”, thì câu trả lời thực bất ngờ. Sự bất ngờ chỉ đem lại cho ông khách sự hốt hoảng. Chúng ta cũng thấy bất ngờ, nhưng lại hiểu ngay là em bé nói về tờ giấy và do đó bật cười. Khi ông khách giật mình hỏi: “Mất bao giờ?”, và em bé trả lời: “Mất tối qua”, thì đó là sự bất ngờ thứ hai. Ông khách càng hốt hoảng mà chúng ta lại càng cười. Đến khi ông khách hỏi dồn: “Tại sao mất?”, và em bé trả lời: “Cháy!”, thì sự bất ngờ đối với ông ta gây sự hoảng hốt và sự ngạc nhiên cao độ. Còn về phần chúng ta được dịp cùng phá ra cười. Sự bất ngờ càng lớn, chiến thắng càng to, tiếng cười càng giòn giã.2.2.2 Kết cấu “gói kín, mở nhanh”Kiểu kết cấu này tác giả dân gian chỉ làm cho chúng ta cười vào lúc kết thúc truyện. Mọi kịch tính, bất ngờ đều được giấu kín, được dồn nén đến tận cùng của truyện. Khi tiếng cười sảng khoái, cười giòn giã cất lên thì cũng là lúc câu truyện kết thúc.Trong truyện Tao thèm quá, khi oan hồn con lợn xuống âm phủ gặp Diêm Vương để tố cáo bọn dồ tể và Diêm Vương bảo nó khai rõ đầu đuôi sự việc, khi Diêm Vương hỏi vặn để biết sau khi lợn bị dội nước sôi và cạo lông rồi thì bọn đồ tể còn làm gì nữa, chúng ta thấy rằng ông Vua ở cõi âm này quả là quan tâm đến số phận đáng thương của con lợn kia. Ông hỏi cặn kẽ đến như thế chắc là để biết cho hết tội ác mà quyết định một sự trừng phạt nghiêm khắc. Diêm Vương thật xứng đáng nói lên điều phán quyết cuối cùng đối với mọi hành vi tội ác ở thế gian này! Tác giả dân gian đã tạo ra tình huống rất bất ngờ, đang trên đà phát triển của truyện, người nghe như hiểu theo một chiều hướng phát triển khác của sự kiện, của nhân vật,... Mà ở đây, chính nhân vật lợn đã tin như thế, kể tiếp, hết sức tin tưởng rằng lời khai của mình giúp cho Diêm Vương cầm cân nẩy mực chính xác hơn, rằng vị thần công lý này sẽ giải cho mình mối hận thù to lớn. Lợn kể kĩ lưỡng, miêu tả tỉ mỉ công việc nấu nướng của bọn người độc ác: cũng vì mục đích ấy. Kể đến đoạn “bắc chảo lên... phi hành mỡ cho thơm, cho mắm muối vào xào...” thì Diêm Vương ngăn lại: “Thôi thôi! Đừng nói nữa”. Có lẽ ngài không đủ can đảm để nghe những điều quá thương tâm ấy. 18Nhưng không! Thật bất ngờ “... tao thèm quá!”. Tác giả đã tạo một tình huống rất kịch tính. Đến đây lợn bị chưng hửng còn chúng ta thì chợt nhận ra bản chất của Diêm Vương để phá lên cười. Cười trong đau xót, cười mỉa mai châm biếm, cười ra nước mắt. Đó chính là bố cục “gói kín, mở nhanh”.2.3. Nghệ thuật chơi chữ trong truyện cười dân gian Viêt Nam2.3.1 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết2.3.1.1.Chơi chữ theo cách cùng âmTừ ngữ cùng âm với cụm từ tự do vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bởi hình thứ cố định của chúng.Ví dụ: Ông khách nọ hỏi đứa bé, khi thấy vắng chủ nhà:- Bố cháu đâu? - Đang đánh chén!- Ở đâu? - Ở bờ ao. Ông khách chạy vội ra bờ ao, thấy chủ nhà đang ngồi rửa chén [thế có chán không kia chứ! ]”“Đánh chén” [làm cho sạch chén bát bằng cách kỳ cọ, quay đảo] cùng âm với “đánh chén” là một từ thông tục, cùng nghĩa với ăn.+ Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bằng kiến thức, kinh nghiệm hay thực tiễn ngoài văn bản. Nhà nọ nghèo, người mẹ thường uống nước vào chỗ sứt của chén, nhường chỗ lành lặn cho chồng con. Đứa con nhỏ thấy đó là việc không bình thường. Một hôm có ông khách đến thăm. Khay trà được đưa ra mời. Qua quan sát ông khách cho rằng: "cái chén bị mẻ hẳn là ít ai chịu uống, nhất là chỗ mẻ, nó vệ sinh" nhất, bèn chỗ chén ấy mà uống. Trong lúc ông khách đang thích thú thưởng thức cả vị trà và sự sáng suốt của mình, thì đứa bé nọ chạy lại, la to lên: - " A, cái ông này! Sao lại uống vào lỗ của mẹ tôi!".Khiến ông suýt đánh rơi chén. Còn đứa bé không hiểu gì cả. Ở đây, tác giả dân gian đã sử dụng yếu tố cùng âm "lỗ" nghĩa là một chỗ bị khoét trống hay nói đến chỗ mẻ của chén [ý thằng bé muốn đề cập] với một bên là từ địa phương nghĩa là "chỗ" hay là "vùng kín" của người phụ nữ [ông khách hiểu theo cách này]. Cho nên đã tạo ra tiếng cười rất vui vẻ và 19nghịch ngợm. Việc sử dụng hình thức chơi chữ theo lối đồng âm này tạo ra hiệu quả cao cho truyện cười dân gian.+ Cùng âm Hán Việt - Hán ViệtHiện tượng vận dụng từ cùng âm Hán Việt trong truyện cười dân gian Việt Nam rất phổ biến. Đặc biệt là nước ta thời bấy giờ chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ thống trị phương Bắc, chữ Hán đã từng thống lĩnh hệ thống giáo dục nước ta một thời. Cho nên yếu tố Hán Việt đi sâu vào đời sống của nhân dân ta, vào truyện cười là điều không thể tránh khỏi. Chơi chữ bằng cách sử dụng các từ cùng âm Hán Việt đã làm cho hệ thống truyện cười dân gian Việt Nam thêm phong phú.Ví dụ như trong truyện sau: "Ông nọ khoe ngôi nhà mới với khách. Nhìn ra cửa sau, ông nói:- Ông xem, hậu môn này của tôi có được không?Người khách hóm hỉnh, đáp:Thật là đại tiện!""Hậu môn" [cửa sau] cùng âm với "hậu môn" [lỗ đít]. Ở đây hai từ này có chung chữ viết nhưng nghĩa thì hoàn toàn khác nhau, không có liên quan gì với nhau cả. Thông thường, người Việt chỉ nói cửa sau hay cửa hậu chứ ít ai nói như ông nọ. Vì vậy mà người khách đã dựa vào đó để trả lời "đại tiện" [rất tiện lợi] ; Do sự có mặt của "hậu môn", nên đại tiện cũng mang nghĩa tống phân ra ngoài.+ Cùng âm có yếu tố riêngCó thể cùng âm chứa yếu tố riêng như: tên riêng, tên địa danh, địa điểm, ... Trong truyện cười sử dung nghệ thuật chơi chữ có yếu tố riêng để nhằm mục đích chủ yếu là đả kích, châm biếm, cười cợt nhũng hiện tượng, sự vật hay con người có bản chất xấu xa. Thông qua sự cùng âm đó mà tác giả dân gian bộc lộ thái độ chê trách, không đồng tình với chúng. Chẳng hạn, trong truyện Tiên sư thằng bảo thái, vận dụng yếu tố cùng âm có chứa yếu tố tên riêng: Trạng Quỳnh đã tạo ra một tình huống, hoàn cảnh rất hợp lôgic về việc sai người ra chợ bảo các hàng thịt, mai mỗi hàng thái sẵn vài cân. "Sáng hôm sau, các hàng thịt lo thái sẵn thịt chờ. Đợi mãi chẳng thấy 20ai tới lấy, họ kéo nhau đến nhà quan Trạng thì thấy vắng tanh. Quan Trạng vừa đi việc quan về,dừng lại bảo: - Chắc có đứa nào chọc phá bà con đấy. Cứ gọi thằng nào bảo thái ra mà chửi! Bạn hàng thịt tức giận, chửi toáng lên: - Tiên sư thằng bảo thái! Tiên sư thằng bảo thái.Vua Bảo Thái bị chửi một bữa inh cả phố" . "Bảo thái" [tiếng Việt: bảo xắt ra] cùng âm với niên hiệu Bảo Thái của Vua Lê Dụ Tông [1720 - 1726] đương thời. Tác giả dân gian đã chơi chữ cách này nhằm tạo ra tiếng cười hả hê, đánh thẳng vào tên Vua không mấy tốt đẹp này.Hay truyện Quỳnh đối ông Tú Cát, ông ta ra vẻ hợm hĩnh, kiêu căng ra câu đối: "Trời sinh ông Tú Cát". Quỳnh thấy vẻ chướng tai gai mắt của ông Tú nên đối lại: "Đất nứt con bọ hung". "Cát" là tên của ông khách, do sự xuất hiện của "hung", biến thành "cát" [lành, tốt lành] ; Và từ "hung", từ tố trong tên gọi "bọ hung", cũng theo đó mà khoác nghĩa "hung" [dữ, dữ tợn] [từ Hán Việt tương ứng] .2.3.1.2 Chơi chữ theo cách nhại, cách gần âm+ Nhại từ ngữ, lời nói, giọng nóiTrong truyện cười, chơi chữ bằng phương thức nhại từ ngữ, lời nói, giọng nói cũng được vận dụng để tạo ra tiếng cười. Có thể nhại bằng cách đọc lệch, theo cách gần âm, sử dụng lại những từ ngữ, lời nói, giọng nói của nhân vật để nhằm mục đích chế giễu nhân vật hay đơn thuần chỉ để cười vui. Ví dụ, "Có anh nọ không được bao lăm chữ trong bụng, nhưng hễ nói là hay xổ ra khoe. Lần ấy, anh ta nói với người ăn kẻ ở rằng: "Sự bất đắc dĩ tao mới đánh mày, chứ tao cũng biết giáo đa thành oán" . Biết anh ta chẳng tốt lành gì, lại nữa vừa rồi vợ đẻ, anh ta tra một cái gáo thật dài cán để đưa cơm nước cho vợ [sợ đưa trực tiếp sẽ làm bẩn chữ thánh hiền trong óc] , người hàng xóm mới giả vờ mắng con rằng:- Sự mất bát đĩa tao mới đánh mày, chứ tao cũng biết gáo tra dài cán!". Ở lời nói của người hàng cười xóm, "sự bất đắc dĩ" biến thành "sự 21mất bát dĩa" [đĩa] ", "giáo đa thành oán" [răn dạy thái quá, có thể gây oán thù] hoá ra "gáo tra dài cán"; Đây là cách nhại theo cách gần âm.+ Cách mô phỏng âm thanh Có khi người ta mô phỏng những âm thanh của thiên nhiên hay các hoạt động của con người để tạo tiếng cười nhằm vào mục đích nào đó. Ví dụ trong truyện Quan thanh tra [1,277], sử dụng "Ô hô! ô hô! ô hô thiên!" đã mô phỏng âm thanh tiếng khóc của con người nhằm chỉ trích, phê phán tên quan tham lam, ngông cuồng.+ Cách gần âm Chơi chữ theo phương thức gần âm tức là tạo một tên gọi, một lời [câu], một văn bản ngắn [có nghĩa theo ngữ cảnh thuận], gần âm với một tên gọi, một lời, văn bản ngắn [cũng theo ngữ cảnh thuận] khác. So với cách cùng âm, thường thể hiện ở cấp độ cao hơn; và ý nghĩa được tạo ra, lắm lúc cũng bất ngờ, thú vị hơn. Nhưng vận dụng trên thực tế, thì gần âm không phong phú bằng. Ở truyện Trạng Lợn, lúc mới đi học, thầy dạy câu "Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng". Thầy vừa đọc xong, Chung Nhi [Trạng Lợn] lập tức đọc trẹo là "Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng". Câu thầy dạy có nghĩa là "Trời thông minh, thánh giú làm nên sự nghiệp", Chung Nhi đọc theo cách gần âm, tạo ý bỡn cợt; Hay nhiều truyện khác như Chánh sứ sang Tàu,..Trên đường đến Biện Kinh, thấy cảnh một người phụ nữ vạch quần đái, Trạng chỉ tay nói đùa: "Nong tay dí bẹn, đỏ hăm hăm". Phó sứ phiên chữ Hán, mà ghi thành: "Đông tây chí Biện, đổ hân hân" [người miền đông, người miền tây đi đến Biện, thấy quang cảnh rất vui vẻ]. Chẳng phải là hiện tượng chơi chữ cách gần âm [câu tiếng Việt gần âm với câu Hán Việt] đó sao.2.3.1.3 Chơi chữ theo cách phiên âm tiếng nước ngoàiPhiên âm tiếng nước ngoài trong truyện cười dân gian Việt Nam rất nhiều nhưng chủ yếu là phiên âm tiếng Pháp và tiếng Trung,... So với truyện cười Việt Nam hiện đại thì dung lượng chủ yếu của các truyện cười sử dụng cách phiên âm tiếng nước ngoài chủ yếu là tiếng Anh - một ngôn ngữ đươc xem là tiếng phổ thông của thế giới. 22Thời kỳ Pháp mới chiếm đóng Hà Nội, có me Tây được bà con gọi là mụ đội chóp. Mụ vốn làm nghề buôn bán ở chợ, nhờ được chồng và các quan Tâu chiều chuộng mà bà bỗng chốc trở nên có nhiều tiền của, thế lực. Nhiều người muốn được chức tước, lợi lộc phải nhờ đến tay mụ, nghe đâu, trong số đó, có cả bậc đại thần...Ba Giai đặc tả mụ đội chóp trong bài thơ:Cô quả tiên, chẳng phải thường Không làm quan tắt thế mà sangTam khoanh trùm lõ bồng bồng túNhất phẩm khâm già dạ dạ ran2.3.1.4 Chơi chữ theo cách lái âm [nói lái] + Dạng tổ hợp lái được nêu trực tiếp. Lái để vui đùa, để đánh đố “Có một thái giám đến xin chữ Quỳnh để treo đại tự trên nhà. Trạng Quỳnh cho hai chữ “Thiên đức”. “Thiên đức” nghĩa là đức tốt. Viên thái giam thích lắm, đóng khung thật đẹp để treo. Nhưng rồi có người giải nghĩa “thiên đức” không phải là đức tốt mà là đực thiến. Thật đau hơn cả thiến!” . Lái để làm đẹp lời“Xiển Bột có anh học trò đỗ đạt sắp ra làm quan, về nhà làm tiệc mừng, mời Xiển Bột tới dự. Xiển chè chén xong, viết tặng bốn chữ “Thượng đẳng tối linh”. Anh ta thích lắm, đem treo giữa nhà. Ít lâu sau, bạn của anh ta [quan phủ, quan huyện] đến chơi, thấy bức trướng tỏ ra kinh hãi: “Chỉ hoàng đế mới xưng thế, quan bác làm vậy mà đến tai triều đình thì khó tránh khỏi tội phản nghịch vô đạo.”Anh ta hoảng hốt, cho mời Xiển Bột đến. Ông giải thích : “Thượng đẳng” là bậc trên, “tối linh” là lính tôi,có gì sai đâu?”. . Lái để châm biếm, đả kíchTruyện kể về mụ Tư Hồng, là một người đàn bà lẳng lơ, làm giàu bất chính mà được phong là “Ngũ phẩm Nghi nhân”, bố mụ là “Hàn Lâm thi độc”. “Mụ sử sang làm tiệc mừng,xin cụ Tam Nguyên Yên Đỗ mấy chữ đại tự, khắc cổng. Cụ Tam cho “chi chi dã”, và giảng giải là ba chữ này rút ra từ một câu trong sách cổ “Đại tiểu do chi xuất nhập khả dã”, nghĩa là lớn 23nhỏ đều có thể ra vào cửa này. Mụ Tư Hồng thích lắm, cho khắc ngay. Nhiều người đi ngang cổng nhà mụ Tư đọc chữ đề, đều nén nụ cười khinh bỉ. Mụ ta tìm người gạn hỏi, mới hay rằng cụ Tam đã chửi mình; Bởi chi chi dã là cha cha đĩ! Thật điếng người!”[ ,73]. Lái để văng tụcLái để văng tục tức tránh việc phải nói, phải viết thẳng từ ngữ tục. Chẳng hạn trong Đá bèo chơi[, ], Trạng đã chửi bà lớn bằng cách nói lái “đá bèo” tức là “đéo bà” mà bà không biết chính mình đang trở thành trò cười cho thiên hạ. Việc nói lái để văng tục có tác dụng chửi những tầng lớp trên bằng cách hạ nhục vị thế của chúng xuống tận hàng thấp nhất để so với cái tục tĩu mà không hề bị chịu sự trừng phạt. Bởi cái bề mặt của từ ngữ lái đã ngụy trang cho cái tục ấy nhưng người ta vẫn phát hiện ra để cười.+ Dạng tổ hợp từ lái được nêu gián tiếp, thông qua một tổ hợp khác . Lái để đùa vui, văng tụcTrạng Quỳnh có lần dâng Chúa Trịnh một hũ mắn “đại phong”. Chúa ăn rất ngon miệng, nhưng không biết tên “đại phong” nghĩa lý ra sao, nên gọi Quỳnh vào giải thích: Trạng cắt nghĩa “đại phong” là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tượng lo là lọ tương. Đây là quá trình tư duy kết hợp với suy luận theo quan hệ nhân quả, và cách đồng nghĩa Hán Việt – thuần Việt.Ngọa sơn, “ngọa” là nằm, “sơn” là núi, núi thì có đèo, cho nên ‘ngọa sơn” bằng “ngáy đèo” tức “đéo ngày”.Trạng Quỳnh chơi thái giám và vua Tự Đức: “vi sương tứ địch” nghĩa là “làm sao cho sáo” lái lại là “làm sao cho sướng”. “Dĩ phát tư phùng” nghĩa là “lấy tóc mà may”, lái lại là “lấy tay mà móc”!.Lái để châm biếm, đả kíchLàng Mỹ Lộc có một người đàn bà thường hay lăng nhăng, tằng tịu với nhiều hạng người nhưng lại làm bộ đoan chính. Khi chồng chết, bà ta làm vẻ thương tiếc, khóc lóc thảm thiết và xin chữ để thờ. Một nho sĩ đã cho một chữ “dĩ” nghĩa là rất lớn; và giải thích là rút từ “dĩ chi sự lễ” [lấy lễ mà thờ]. Bà ta không biết rằng nhà nho nọ đã mắng mình. Bởi “dĩ” viết to là dĩ lớn là “đại dĩ”, “đại dĩ” là “đĩ dại”! [ ,134]242.3.1.5 Chơi chữ theo cách đan xen ngôn ngữ+ Một số cách chơi chữ về chữ viết: chữ Hán.Tách ghép chữ HánTruyện Trạng Quỳnh có mẫu kể về việc Quỳnh trêu ghẹo con gái quan Bảng nhãn [người Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội], quan bảng ra vế đối khó, nếu đối không được sẽ bị đòn:“Thằng quỷ ôm cái đấu, đứng cửa khôi nguyên”Vế ra sử dụng cách ghép chữ: “quỷ” + “đấu” = “khôi”Quỳnh đối lại:“Con mốc nấp cây bàng, dàn nhà bảng nhã”Vế đối cũng sử dụng cách ghép chữ: “mộc” + “bàng” = “bảng”. Ý nghĩa cũng tương xứng [“mộc” [con mộc]: một loại ma gỗ, ma cây]. Đọc nhầm chữ HánTruyện Trạng Lợn có mẩu: “Chung Nhi cùng bạn cùng bạn trẩy kinh ứng thi, hôm nọ đi đến một làng thì trời tối, định tìm chỗ xin ở qua đêm. Bất đồ, khi qua đình, Chung Nhi lại giục mọi người rảo chân nhanh: Đi mau để trọ nơi khác, làng này bất yên! Thấy các bạn ngạc nhiên, Chung Nhi chỉ tay vào tấm bia trước đình. Ở đấy có khắc hai chữ “hạ mã” [xuống ngựa]. Các bạn suýt bật cười vì sự nhầm lẫn, nhưng Chung Nhi lôi đi, vẻ quyết liệt, đành nghe theo. Vừa đi ra tới, quả nhiên thấy trong làng phát hỏa. mọi người cho có thần linh báo trước, chứ không làm sao mà một người lặn lội lên tận kinh đô để thi, lại đọc “hạ mã” thành “bất yên” [không an lành] được”.Hay trong truyện “Ông thầy đồ dốt, một lần dạy đến chỗ “phàm huấn mông” [phàm việc dạy học], thầy không biết nghĩa là gì, cứ dạy rằng: “phàm” là ông Phàm, “huấn” là ông Huấn, “mông” là ông Mông. Lần khác, dạy chữ “bôi” [chén nhỏ] mà không biết âm và nghĩa ra sao; thấy chữ “mộc” [cây] đứng bên chữ “bất” [không], thầy đoán một đằng nghĩa, một đằng âm, bèn dạy: - “bất” là cây bất. Học trò hỏi: - Thưa thầy, cây bất nó như thế nào ạ?Thầy vội mắng át đi: - Cây bất tận ngoài bể Đông, chúng bay biết thế nào được mà hỏi?25Ở cạnh trường, có một người đàn bà biết chữ, nghe thầy dạy láo, mới hát ru con rằng: “Ai trồng cây bất bể Đông, Hay là ông Huấn, ông Mông, ông Phàm?”2.3.1.6 Một số cách chơi chữ về chữ viết: chữ Quốc ngữ+ Chuyển đổi các yếu tố thuộc một bộ phận của âm tiết chữ Quốc ngữ.Chuyển đổi giữa các yếu tố thuộc bộ phận vần: Dạng này giữ nguyên phụ âm đầu và thanh điệu, bộ phận vần chuyển đổi theo hướng thêm vào, bớt ra hoặc thay thế một số âm nào đó.“Thấy mấy chàng trai cứ quấn quýt, quẩn quanh bên các cô tiếp viên ở quán rượu mà không chịu về, dù đêm đã khuya, chủ quán muốn đóng cửa, bèn nhờ một người đứng tuổi đọc rằng: Cây luồng mà bỏ u rê, Làm cho mấy chú mải mê không về.Nghe vậy, các chàng đỏ mặt, kéo nhau về”.“Luồng” là một loại tre nứa. Chữ “luồng” mà rút bỏ đi “u”, “g” trở thành nhân tố gây sự bất ổn, được nêu cụ thể ở dòng bát. Trước đám đông mà gọi mặt chỉ tên “nó”, dù là gián tiếp đi nữa, cũng xấu hổ, nên các chàng đành rút lui. “Bỏ u rê” cũng chỉ việc bón phân u rê [cùng âm]..Chuyển đổi giữa các yếu tố thuộc bộ phận thanh điệu+ Đọc nhầm, đọc lệch lời do viết chữ Quốc ngữDo viết không có dấu thanhVí dụ: Cuối thời Pháp thuộc, có làng nhận được lệnh của quan huyện phải cử người đi dự mít tinh. Tờ chỉ thị có dòng “Khi đi phải co co”. Các vị hương chức mới bập bõm chữ Quốc ngữ, người đọc “Khi đi phải co co [co tay]; người đọc “khi đi phải cò cò [nhảy lò cò];...Sau hỏi người thư lại ở huyện, mới rõ là “Khi đi phải có cờ”!”.2.3.2 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ nghĩa2.3.2.1 Chơi chữ theo cách trái nghĩa+ Đặt cặp trái nghĩa [hay đối lập nhau về ý nghĩa]Trong truyện Thủ Thiệm: “Thủ Thiệm bị quan huyện sai lính lệ bắt giam. Quan thét: - Lệ đâu! Đưa thằng này xuống buồng giam, giam đầu nó lại!

Video liên quan

Chủ Đề