Tại sao nước ta cnh phải gắn liền với hđh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [176.38 KB, 11 trang ]

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2CHỦ ĐỀ: TẠI SAO CNH – HĐH Ở NƯỚC TA PHẢI GẮN LIỀN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC NỘI DUNG TÌM HIỂUI. Lý thuyết1. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là gì?a] Khái niệmb] Vai trò của CNH – HĐH2. Kinh tế tri thức là gì?a] Khái niệmb] Đặc điểm của nền kinh tế tri thứcc] Vai trò của nền kinh tế tri thức3. Tri thức khoa học là tiền đề và động lực cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.II. Thực trạng ở Việt Nam1. Nhận dạng nền kinh tế tri thức ở nước ta2. Những việc đã làm được3. Những việc có thể làm, nhưng chưa làm được4. Nội dung quyết định chỉ đạo CNH-HĐH gắn với trí thức của Đảng ta[1996-2006]a] Đại hội VIII [6/1996] b] Đại hội IX [4/2001] và Đại hội X [4/2006]5. Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt NamPage 1BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2III. Kết luậnCỤ THỂI.LÝ THUYẾT 1] CNH-HĐH là gì?

a, Khái niệm: CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản

xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển cao của công nghiệp và sự tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn. *Nó bao gồm 2 nội dung:– Trang bị kĩ thuật – công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp và các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.– Tạo lập cơ cấu kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại.b, Vai trò của CNH – HĐH Thứ nhất, sẽ tạo điều kiện thay đổi về vật chất nền sản xuất xã hội, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế,nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội, góp phần quyết đinh thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, tạo điều kiện về vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh, đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất- kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh…2] Kinh tế tri thức là gì?a,Khái niệm. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế [OECD] đưa ra khái niệm năm 1995: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.b, Đặc điểm của nền kinh tế tri thứcPage 2BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2

Thứ nhất, trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành LLSX trực tiếp, là vốn quý

nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Thứ hai, trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng, trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số. Thứ ba,công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp cả nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin là tài nguyên quan trọng nhất trong nền kinh tế. Thứ tư, nguồn nhân lực nhanh chóng được được tri thức hoá, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên của đối với mọi người và phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Thứ năm, trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hoá kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70% GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao; hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công nhân tri thức trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người. Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.c,Vai trò của nền kinh tế tri thức.– Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa từng thấy của nhân loại. Kinh tế tri thức[ KTTT] có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động

mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo

ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên hiện hữu. – KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.kKTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao. Tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học. Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.Page 3BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 Nó thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ… với nhiều hình thức phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.3, Tri thức khoa học là tiền đề và động lực cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển sản xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất nhằm thoả mãn các nhu cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất [đối tượng lao động, công cụ lao động, khoa học công nghệ, hạ tầng cơ sở…] và con người. Ngày nay tri thức đã thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong nền kinh tế tri thức mà một số nước công nghiệp phát triển đang thực hiện, tri thức khoa học đặc biệt là tri thức của một số lĩnh vực như tin học, điều khiển học, sinh học… đã trực tiếp gia nhập vào quá trình sản xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách này lực lượng sản xuất sẽ không ngừng được bổ sung và đổi mới theo hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. Xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không

ngừng thay thế dần các trang thiết bị, các qui trình công nghệ chưa hoàn thiện [cho năng

suất thấp, tiêu hao nhiên liệu, gây ô nhiễm….] bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch. Điều đó là dựa vào tri thức khoa học. Như vậy tri thức khoa học đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đaịi vàđó là nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.Tri thức khoa học có vai trò to lớn quyết định trong việc biến đổi yếu tố con người trong lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại. Bằng tri thức con người có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng như đủ sức giải quyết những tình huống phức tạp, có vấn đề trong sản xuất vàđời sống. Mặt khác, do sự thường xuyên đổi mới của trang thiết bị sản xuất vàđời sống nó buộc con người thường xuyên học tập, trau dồi kiến thức để khỏi bịđào thảo ra khỏi quá trình sản xuất xã hội vàđể thích ứng với cuộc sống hiện tại. Trình độ chất lượng của đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và hoàn thiện. Do đó với tư cách là yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, tri thức khoa học có vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất. Ngoài ra nhờ có tri thức khoa học mà quan hệ sản xuất phát triển con người nắm bắt, truyền đạt thông tin nhanh hơn nhờđó thúc đẩy sản xuất. Ngày nay tri thức khoa học liên quan chặt chẽ và tác động trực tiếp, mạnh mẽ lên cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó tri thức khoa học còn có vai trò trong hoàn thiện cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tri thức khoa học đóng góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của xã hội. Như vậy CNH – HĐH ở nước ta phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.II.THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM1. Nhận dạng nền kinh tế tri thức ở nước taPage 4BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2Trong bối cảnh chung toàn cầu của những chuyển dịch mang tính cơ cấu như cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông, những tiến bộ nhanh chóng và vượt bậc của

khoa học – công nghệ, làn sóng toàn cầu hoá kinh tế dâng mạnh thúc đẩy cạnh tranh trên

Xem thêm: Nguyên nhân chảy nước miếng khi ngủ

quy mô toàn cầu, những thay đổi trong nền kinh tế văn hoá, lối sống và thị yếu của người tiêu dùng khi thu nhập tăng lên, các quốc gia đang chuẩn bị cho mình khung chính sách để thích ứng với bối cảnh mới đó.Chúng ta thấy các ưu tiên chính sách chung sau:– Xây dựng một mạng viễn thông phát triển, cước phí rẻ và hiệu quả;– Tăng năng suất thông qua các ngành kinh doanh có hàm lượng thông tin và giá trị tăng thêm cao; – Tăng tính cạnh tranh của khu vực công nghiệp và thương mại; – Hỗ trợ khu vực dịch vụ thông tin; – Đầu tư tập trung cho giáo dục và đào tạo [đặc biệt là giáo dục kỹ thuật] kết hợp với các chương trình học tập suốt đời và nâng cao kỹ năng; nâng cao mặt bằng dân trí, người dân được thông tin tốt và tham gia sâu rộng hơn vào nền dân chủ, các chiến lược ủng hộ và bảo tồn các giá trị văn hoá.2. Những việc đã làm được : Đánh giá theo những đặc trưng của kinh tế tri thức, trong gần 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả, thể hiện chủ yếu như sau: – Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Liên tục trong nhiều năm, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, đạt trung bình khoảng hơn 8% hàng năm trong giai đoạn 1990- 2000 và hơn 7% trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. Bên cạnh tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế của nước ta trong những năm qua đã có sự chuyển dịch. Tỷ trọng nông- lâm- ngư nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã tăng lên tương ứng Bảng 1. Tỷ trọng các ngành trong GDP [%]Các ngành/năm 1986 1990 1995 2000 2003Nông –lâm- ngư nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,30 21,80Công nghiệp-xây dựng 28,88 22,67 28,76 36,61 40,00Dịch vụ 33,06 38,59 44,06 39,09 38,20Nguồn: Tổng cục Thống kê.

– Thứ hai, xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

của khu vực kinh tế tư nhân: Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế thị trường, cải cách tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước, tăng cường năng lực, tính năng động và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới và tạo cuộc sống tốt hơn cho người dân; cơ cấu lao động thay Page 5BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2đổi với sự từng bước gia tăng của lực lượng lao động xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản phẩm, làm văn phòng,… [còn gọi là lao động tri thức]. – Thứ ba,chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Việt Nam không ngừng được mở rộng thông qua việc ký kết và tham gia vào các hiệp định và diễn đàn như: ký Hiệp định khung với Liên minh Châu Âu [EU] [1992]; tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN [AFTA] [1996]; tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương [APEC] [1998]; ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ [2000]; và từ năm 1995 đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.  Nước ta đang từng bước trở thành một khâu trong mạng lưới sản xuất- kinh doanh toàn cầu, trong đó có những hoạt động liên quan đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức. – Thứ tư, từng bước hình thành kết cấu hạ tầng then chốt cho kinh tế tri thức: Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Việt Nam đã được tự động hoá hoàn toàn với 100% các hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải rộng trên toàn quốc và kết nối với quốc tế. Một loạt các dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet đã được tạo lập và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, phục vụ các hoạt động sản xuất- kinh doanh, quản lý như nước, giáo dục, y tế, nghiên cứu, giải trí, giao tiếp 3. Những việc có thể làm, nhưng chưa làm được. Cũng đánh giá theo những đặc trưng chủ yếu của kinh tế tri thức, trong những năm qua, có những việc chúng ta có thể làm, hoặc có thể làm tốt hơn, nhưng chưa làm được thể

hiện chủ yếu như sau:

– Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa được cải thiện nhiều: Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao thể hiện ở chỗ hiệu quả nền kinh tế còn thấp, năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư có xu hướng gia tăng. Môi trường đầu tư không ổn định và năng lực yếu kém của bộ máy hành chính đã làm tăng đáng kể chi phí giao dịch và chi phí đầu vào sản xuất- kinh doanh. – Thứ hai, nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường còn non yếu, thiếu sót và nhiều méo mó Hệ thống thể chế kinh tế thị trường ở nước ta nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chưa theo kịp diễn biến thực tế của các hoạt động kinh tế, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo, không minh bạch, và nhất là năng lực thực thi pháp luật còn yếu. Cải cách hành chính diễn ra chậm chạp, khiến cho năng lực hỗ trợ của nền hành chính cho phát triển kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng, thậm chí trong nhiều trường hợp các thủ tục hành chính lạc hậu, rườm rà còn gây cản trở cho công cuộc phát triển. Một số thị trường rất quan trọng mới chỉ được hình thành rất sơ khai mà đã nhiều méo mó, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ. Hàng hoá trên thị trường khoa học và công nghệ còn nghèo nàn, lượng giao dịch trên thị trường còn ít và đơn điệu. Thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam chưa trở thành môi trường cần thiết để khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới. – Thứ ba, quá trình chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh và chưa đồng đều: Quá trình phát triển nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm.Page 6BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2Nước ta chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như chưa có lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế, do đó chưa gắn kết được một cách hài hoà các lộ trình hội nhập ở các cấp độ và quy mô khác nhau: song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Tính chủ động của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như của doanh nghiệp trong hội nhập

kinh tế quốc tế chưa cao, thậm chí còn khá bị động trong nhiều lĩnh vực, mong muốn tiếp

tục nhận được sự bảo hộ từ phía Nhà nước. Sự bảo hộ này đã hạn chế cạnh tranh, tăng thêm sức ì và gánh nặng đối với nền kinh tế, đồng thời tác động bất lợi đến quá trình hoạch định chính sách. – Thứ tư, các lĩnh vực biểu hiện đặc trưng của kinh tế tri thức chưa phát triển: Các ngành mới, đại diện cho kinh tế tri thức [hay gòn gọi là các ngành công nghệ cao] hoặc chưa hình thành hoặc mới ở trình độ phát triển rất sơ khai. Số doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai [R&D] nhằm tạo ra công nghệ mới là không đáng kể. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn Việt Nam chỉ có một số doanh nghiệp nhà nước lớn có cơ sở hoạt động và nghiên cứu phát triển công nghệ, nhưng lượng vốn đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp này chỉ đạt khoảng 0,2% doanh thu, quá thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp tại các nước phát triển. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước hầu như chưa tham gia hoạt động R&D. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế- xã hội còn rất hạn chế. Mạng thông tin đa phương tiện tuy đã và đang được mở rộng khá nhanh, nhưng chưa bao phủ được khắp toàn quốc, chưa kết nối được đến hầu hết các tổ chức và các hộ gia đình. Bên cạnh đó, sự tiếp cận với mạng thông tin còn gặp phải nhiều ràng buộc liên quan đến các khía cạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, các thủ tục hành chính, pháp lý, giá cước… Điều này ảnh hưởng lớn đến sự tiếp cận của các thành viên trong xã hội với những thông tin cần thiết Nền giáo dục, đào tạo của nước ta đang chứa đựng nhiều vấn đề bức xúc, bộc lộ những yếu kém dai dẳng trong nhiều năm chưa khắc phục được. Sự chậm đổi mới về phương pháp dạy và học, nội dung chương trình, các hiện tượng chạy theo thành tích, dạy thêm học thêm tràn lan… đã được đề cập, bàn bạc nhiều, nhưng chưa có những giải pháp hữu hiệu. Công tác xã hội hoá giáo dục diễn ra chậm, sự phân biệt đối xử đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập… góp phần kìm hãm sự phát triển giáo dục. Thực tế đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực của Việt Nam, một nguồn nhân lực dồi dào về số lượng lao động nhưng lại thiếu trầm trọng nguồn lao động có chất lượng Như vậy, phát triển KTTT là tất yếu đối với nước ta

Phát triển KTTT ở nước ta là một chuyển biến chiến lược trọng đại: chuyển nền

kinh tế từ dựa vào tài nguyên sang dựa chủ yếu vào tri thức và năng lực sáng tạo của con người. Với những nguồn lực sẵn có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để làm ra được nhiều hơn, tốt hơn, hiệu quả hơn. Tài nguyên thiên nhiên là có hạn, năng lực sáng tạo con người là vô hạn. Page 7BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2Nước ta là nước đi sau, có cơ hội và cần thiết phải đi tắt, phát triển KTTT ngay trong quá trình CNH. Cùng một quá trình thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ CNH và “tri thức hóa”. Nói cách khác đó là CNH rút ngắn dựa trên tri thức. Xuất phát từ thực tế nước ta, yêu cầu hội nhập và yêu cầu phát triển rút ngắn buộc ta phải có chiến lược hai tốc độ [tuần tự và nhảy vọt]Kinh tế tri thức cho ta cơ hội nhắm bắt và vận dụng sáng tạo những tri thức mới, cách thức kinh doanh mới để đổi mới nền kinh tế nước ta: Tìm ra cái chưa biết là sáng tạo cái mới, là tạo ra giá trị mới. Tạo ra của cải và nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ là nhờ tối ưu hóa và hoàn thiện cái đã có, mà chủ yếu là do sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới, cách làm mới.4. Nội dung quyết định chỉ đạo CNH-HĐH gắn với trí thức của Đảng ta[1996-2006]a] Đại hội VIII [6/1996] – Đã đưa ra nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiệm vụ đề ra là đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.– Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố

trung tâm của CNH, HDH. Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

trong những năm trước mắt [1996-2000] là “đặc biệt coi trọng CNH, HDH nông nghiệp nông thôn…”. Kết quả là: + Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996: 9,3%; 2000: 6,75% + Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996: 14,5%; 2000: 10,1 % + Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996: 4,4%; 2000: 4% + Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996: 33,2%; 2000: 24% + Cơ cấu kinh tế 1996: 27,8 – 29,7 – 42,5 [%]; 2000: 24,3 – 36,6 – 39,1 [%] b] Đại hội IX [4/2001] và Đại hội X [4/2006]Đại hội IX [năm 2001] và Đại hội X [năm 2006] Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa: – Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có Page 8BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời gian. – Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH. – Hướng CNH, HĐH ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. – CNH, HĐH đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành CNH trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.

– Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao năng suất, chất

Xem thêm: Thực phẩm có vai trò gì trong việc tăng cơ giảm mỡ?

lượng sản phẩm nông nghiệp. – Đẩy mạnh CNH, HĐH phải tính toán đến yêu cầu phát triển bền vững trong tương lai. 5. Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. – Vì là một nước đang phát triển và đang chuyên đổi, nên quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là một quá trình thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ: kinh tế nông nghiệp chuyển sang kinh tế công nghiệp và kinh tế công nghiệp chuyển sang kinh tế tri thức cùng một lúc và trong quan hệ thúc đẩy lẫn nhau với việc chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ba nhiệm vụ ấy phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau. Định hướng cực kỳ quan trọng là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hoá nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. – Các nhóm công việc cần làm: + Nhóm công việc thứ nhất: thực hiện các chủ trương và biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được quyết định trong những văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta. +Nhóm công việc thứ hai: gắn kết mật thiết với nhóm công việc thứ nhất, có phần hai nhóm lồng vào nhau, là tạo lập các yếu tố cơ bản ban đầu để “từng bước phát triển kinh tế tri thức” và đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực của kinh tế tri thức. Cách thức và bước đi của việc thực hiện hai nhóm công việc này sẽ được trình bày rõ hơn dưới đây.III. KẾT LUẬN Tri thức khoa học là một trong những vấn đề được nhân loại quan tâm nhất trong thời gian đại ngày nay. Bởi lẽ, nếu không có khoa học công nghệ thì đã không thể có và sẽ không thể có phát triển của xã hội loài người, lịch sử xã hội là quá trình con người không ngừng nhận thức và cải tạo thế giới bằng khoa học công nghệ: khoa học công nghệ Page 9

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2

gắn bó chặt chẽ với sản xuất, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đối với Việt Nam, tri thức khoa học công nghệ đang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng và quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa là nền tảng vừa là động lực. Vì vậy chúng ta cần nhận thức được tầm quan trọng của tri thức và tri thức khoa học để có thể định hướng được hướng phát triển của đất nước.Thực tiễn đã chứng minh những tác dụng của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là điều kiện tất yếu khách quan để cho những nước nghèo, lạc hậu có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước giàu, tạo ra sự đột phá về kinh tế và khoa học công nghệ. Vì vậy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Để có những quan điểm, bước đi đúng đắn, phù hợp giữa lý luận và thực tiễn chúng ta phải không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của các nước đi trước, coi trọng việc tổng kết, kiểm điểm sau mỗi chặng, vạch kế hoạch phương hướng ngắn hạn, trung hạn và cả dài hạn để cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiến hành một cách ổn định, bền vững gắn liền với quốc phòng an ninh, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường…Để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải không ngừng tìm kiếm, tạo dựng những tiền đề cần thiêt đó là:• Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi vốn rất to lớn. Do đó, mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công.• Đào tạo nguồn nhân lực.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đòi hỏi phải có vốn, khoa học kỹ thuật, tài nguyên…mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học- kỹ thuật

vươn lên ngang tầm thế giới.

• Phát triển khoa học và công nghệ.Khoa học công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nó có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng của các quốc gia.Do đó cần phải xây dựng Page 10BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học công nghệ trước hết phải tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học công nghệ • Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được tiến hành thuận lợi và càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của viêc mở rộng kinh tế đối ngoại là nhằm thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, là việc tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, là việc mở rộng thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thuận lợi.• Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tự bản thân nó đã là một cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta.  Là một sinh viên vừa bước vào ngưỡng cửa đại học, là nhà kinh tế tương lai của đất nước, ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải nhận thức rõ được vị trí của bản thân, xác định đúng vị trí vai trò to lớn của tri thức khoa học trong sự nghiệp kiến thiết đất nước. Để sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam thành công, để khoa học công nghệ trở thành nền tảng đòi hỏi sự nỗ lực mọi mặt trong việc tiếp thu và phát triển công nghệ cao của tất cả chúng ta một cách hiệu qủa.Page 11

xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ và quản lí kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động bằng tay thủ công làchính sang sử dụng một cách thông dụng sức lao động cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện đi lại vàphương pháp tiên tiến và phát triển, hiện đại dựa trên sự phát triển cao của công nghiệp và sự tiến bộkhoa học – công nghệ tiên tiến, tạo ra hiệu suất lao động xã hội cao hơn. * Nó gồm có 2 nội dung : – Trang bị kĩ thuật – công nghệ tiên tiến tiên tiến và phát triển cho nông nghiệp và những ngành khác của nền kinhtế quốc dân. – Tạo lập cơ cấu tổ chức kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu tổ chức công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụhiện đại. b, Vai trò của CNH – HĐHThứ nhất, sẽ tạo điều kiện kèm theo biến hóa về vật chất nền sản xuất xã hội, tăng sức chế ngựcủa con người so với vạn vật thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổnđịnh tình hình kinh tế, chính trị xã hội, góp thêm phần quyết đinh thắng lợi của chủ nghĩa xãhội. Thứ hai, tạo điều kiện kèm theo về vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế củaNhà nước, nâng cao năng lượng quản trị, năng lực tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo nhiềucông ăn việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát triển tổng lực của con ngườitrong mọi hoạt động giải trí kinh tế – xã hội. Thứ ba, tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho khoa học công nghệ tiên tiến phát triển nhanh, đạt trình độtiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng, bảo mật an ninh … 2 ] Kinh tế tri thức là gì ? a, Khái niệm. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế [ OECD ] đưa ra khái niệm năm 1995 : “ Nền kinh tếtri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyếtđịnh nhất so với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng đời sống ”. b, Đặc điểm của nền kinh tế tri thứcPageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2T hứ nhất, trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành LLSX trực tiếp, là vốn quýnhất, là nguồn lực quan trọng số 1, quyết định hành động sự tăng trưởng và phát triển của nềnkinh tế. Thứ hai, trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai và phương pháp hoạt động giải trí kinhtế có những đổi khác thâm thúy, nhanh gọn, trong đó những ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ tiên tiến ngày càng tăng và chiếm đasố. Thứ ba, công nghệ thông tin được ứng dụng thoáng đãng trong mọi nghành nghề dịch vụ và thiết lậpđược những mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp cả nước, nối với hầu hết những tổ chức triển khai, những mái ấm gia đình. Thông tin là tài nguyên quan trọng nhất trong nền kinh tế. Thứ tư, nguồn nhân lực nhanh gọn được được tri thức hoá, sự phát minh sáng tạo, thay đổi, học tập trở thành nhu yếu tiếp tục của so với mọi người và phát triển con người trởthành trách nhiệm TT của xã hội. Thứ năm, trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động giải trí đều có tương quan đến yếu tố toàncầu hoá kinh tế, có ảnh hưởng tác động tích cực hoặc xấu đi sâu rộng đến nhiều mặt của đời sốngxã hội trong mỗi vương quốc và trên toàn quốc tế. Chỉ khi nào những ngành công nghệ cao, ứng dụng những tân tiến khoa học – kỹ thuật hiệnđại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì kinh tế tri thức mớiđược tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức : hơn 70 % GDP phải được tạo ra từ những ngành sảnxuất dịch vụ vận dụng công nghệ cao ; hơn 70 % giá trị ngày càng tăng là do trí tuệ mang lại ; hơn70 % công nhân tri thức trong cơ cấu tổ chức lao động ; hơn 70 % cơ cấu tổ chức vốn là vốn con người. Nền kinh tế và xã hội luôn luôn thay đổi, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng củasự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới. c, Vai trò của nền kinh tế tri thức. – Kinh tế tri thức mang lại những thời cơ và thử thách lớn trong sự phát triển chưa từngthấy của quả đât. Kinh tế tri thức [ KTTT ] có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày này. Phát triển kinh tế tri thức là thời cơ để rút ngắn khoảng cách lỗi thời. Từ những tri thức, công nghệ tiên tiến kỹ thuật mới, những tư liệu lao động mới, mạng lưới hệ thống máy móc mưu trí, tự độnghóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và phát minh sáng tạo ra nhiều đối tượng người dùng lao độngmới, những nguyên vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, … hoàn toàn có thể trước đây chưa từng Open, tạora nhiều giá trị sử dụng mới, cung ứng thỏa mãn nhu cầu nhu yếu xã hội ngày càng tốt hơn, giảmbớt việc khai thác những nguồn tài nguyên hiện hữu. – KTTT là động lực thôi thúc tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sảnxuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. kKTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở những ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao.  Tác động can đảm và mạnh mẽ đến quy trình phát triển của hàng loạt nền kinh tế. Nó thôi thúc công nghiệp phát triển nhanh trải qua những cuộc cách mạng, cách mạngxanh, cách mạng sinh học. Nó thôi thúc công nghiệp, không ngừng ngày càng tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, côngnghệ trong loại sản phẩm công nghiệp qua đó mà ngày càng tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi củasản phẩm công nghiệp. PageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2N ó thôi thúc trí nghiệp ở những ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ … với nhiềuhình thức đa dạng và phong phú. Nó thôi thúc việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền vănminh cao hơn. 3, Tri thức khoa học là tiền đề và động lực cho quy trình triển khai công nghiệp hoá, hiệnđại hoá. Mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển sản xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất nhằm mục đích thoả mãn những nhu yếu ngày càng tăng củacon người và thôi thúc sự phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất gồm có những yếu tốcơ bản : tư liệu sản xuất [ đối tượng người tiêu dùng lao động, công cụ lao động, khoa học công nghệ tiên tiến, hạtầng cơ sở … ] và con người. Ngày nay tri thức đã thật sự trở thành lực lượng sản xuất trựctiếp. Trong nền kinh tế tri thức mà 1 số ít nước công nghiệp phát triển đang triển khai, trithức khoa học đặc biệt quan trọng là tri thức của 1 số ít nghành như tin học, điều khiển học, sinhhọc … đã trực tiếp gia nhập vào quy trình sản xuất và dịch vụ của xã hội. Bằng cách nàylực lượng sản xuất sẽ không ngừng được bổ trợ và thay đổi theo hướng ngày càng tăng tínhhiện đại, tiên tiến và phát triển. Xu hướng hoạt động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là khôngngừng sửa chữa thay thế dần những trang thiết bị, những qui trình công nghệ tiên tiến chưa hoàn thành xong [ cho năngsuất thấp, tiêu tốn nguyên vật liệu, gây ô nhiễm …. ] bằng những trang thiết bị, quy trình tiến độ côngnghệ cao, công nghệ sạch. Điều đó là dựa vào tri thức khoa học. Như vậy tri thức khoahọc đã thôi thúc sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đaịi vàđó là nềntảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội. Tri thức khoa học có vai trò to lớn quyết định hành động trong việc biến hóa yếu tố con người tronglực lượng sản xuất theo khunh hướng hiện đại. Bằng tri thức con người hoàn toàn có thể nhanhchóng quản lý và vận hành tốt và thích nghi với những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến và phát triển trong sảnxuất, cũng như đủ sức xử lý những trường hợp phức tạp, có yếu tố trong sản xuấtvàđời sống. Mặt khác, do sự liên tục thay đổi của trang thiết bị sản xuất vàđời sốngnó buộc con người tiếp tục học tập, trau dồi kỹ năng và kiến thức để khỏi bịđào thảo ra khỏiquá trình sản xuất xã hội vàđể thích ứng với đời sống hiện tại. Trình độ chất lượng củađội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và hoànthiện. Do đó với tư cách là yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, tri thức khoa học có vai tròcực kỳ quan trọng, có đặc thù quyết định hành động so với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thôi thúc sự phát triển của sản xuất. Ngoài ra nhờ có tri thức khoa học mà quan hệ sảnxuất phát triển con người chớp lấy, truyền đạt thông tin nhanh hơn nhờđó thôi thúc sảnxuất. Ngày nay tri thức khoa học tương quan ngặt nghèo và tác động ảnh hưởng trực tiếp, can đảm và mạnh mẽ lên cảlực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó tri thức khoa học còn có vai tròtrong triển khai xong chính sách tổ chức triển khai, quản trị sản xuất, kinh doanh thương mại, nhằm mục đích tiềm năng thôi thúc sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tri thức khoa học góp thêm phần quan trọng vàoviệc triển khai tiềm năng phát triển vững chắc của xã hội.  Như vậy CNH – HĐH ở nước ta phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. II.THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM1. Nhận dạng nền kinh tế tri thức ở nước taPageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2T rong toàn cảnh chung toàn thế giới của những vận động và di chuyển mang tính cơ cấu tổ chức như cuộc cáchmạng công nghệ thông tin và tiếp thị quảng cáo, những tân tiến nhanh gọn và vượt bậc củakhoa học – công nghệ tiên tiến, làn sóng toàn cầu hoá kinh tế dâng mạnh thôi thúc cạnh tranh đối đầu trênquy mô toàn thế giới, những đổi khác trong nền kinh tế văn hoá, lối sống và thị yếu của ngườitiêu dùng khi thu nhập tăng lên, những vương quốc đang chuẩn bị sẵn sàng cho mình khung chính sáchđể thích ứng với toàn cảnh mới đó. Chúng ta thấy những ưu tiên chủ trương chung sau : – Xây dựng một mạng viễn thông phát triển, cước phí rẻ và hiệu suất cao ; – Tăng hiệu suất trải qua những ngành kinh doanh thương mại có hàm lượng thông tin và giátrị tăng thêm cao ; – Tăng tính cạnh tranh đối đầu của khu vực công nghiệp và thương mại ; – Hỗ trợ khu vực dịch vụ thông tin ; – Đầu tư tập trung chuyên sâu cho giáo dục và giảng dạy [ đặc biệt quan trọng là giáo dục kỹ thuật ] kết hợpvới những chương trình học tập suốt đời và nâng cao kiến thức và kỹ năng ; nâng cao mặt bằngdân trí, người dân được thông tin tốt và tham gia sâu rộng hơn vào nền dân chủ, những kế hoạch ủng hộ và bảo tồn những giá trị văn hoá. 2. Những việc đã làm được : Đánh giá theo những đặc trưng của kinh tế tri thức, trong gần 20 năm thay đổi vừa mới qua, Nước Ta đã đạt được những tác dụng, bộc lộ đa phần như sau : – Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và chuyển dời cơ cấu tổ chức kinh tế : Liên tục trong nhiều năm, Nước Ta duy trì được vận tốc tăng trưởng kinh tế cao và ổnđịnh, đạt trung bình khoảng chừng hơn 8 % hàng năm trong quá trình 1990 – 2000 và hơn 7 % trong quá trình từ năm 2001 đến nay. Bên cạnh vận tốc tăng trưởng cao, cơ cấu tổ chức kinh tế của nước ta trong những năm qua đã cósự chuyển dời. Tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp trong GDP đã giảm đều đặn và tỷ trọngcông nghiệp – kiến thiết xây dựng và dịch vụ đã tăng lên tương ứngBảng 1. Tỷ trọng những ngành trong GDP [ % ] Các ngành / năm 1986 1990 1995 2000 2003N ông – lâm – ngư nghiệp 38,06 38,74 27,18 24,30 21,80 Công nghiệp-xây dựng 28,88 22,67 28,76 36,61 40,00 Dịch Vụ Thương Mại 33,06 38,59 44,06 39,09 38,20 Nguồn : Tổng cục Thống kê. – Thứ hai, thiết kế xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho sự phát triểncủa khu vực kinh tế tư nhân : Nước Ta đã đạt được những tác dụng quan trọng trong việc thiết kế xây dựng mạng lưới hệ thống pháp luậtkinh tế thị trường, cải cách tổ chức triển khai và hoạt động giải trí cỗ máy nhà nước, tăng cường năng lượng, tính năng động và niềm tin nghĩa vụ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, chú trọng hỗ trợcho những doanh nghiệp mới và tạo đời sống tốt hơn cho người dân ; cơ cấu tổ chức lao động thayPageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 đổi với sự từng bước ngày càng tăng của lực lượng lao động giải quyết và xử lý thông tin, làm dịch vụ, dichuyển mẫu sản phẩm, làm văn phòng, … [ còn gọi là lao động tri thức ]. – Thứ ba, dữ thế chủ động hội nhập kinh tế quốc tế : Các quan hệ kinh tế song phương và đa phương của Nước Ta không ngừng được mởrộng trải qua việc ký kết và tham gia vào những hiệp định và forum như : ký Hiệp địnhkhung với Liên minh Châu Âu [ EU ] [ 1992 ] ; tham gia Khu vực Thương mại Tự doASEAN [ AFTA ] [ 1996 ] ; tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á – Thái Bình Dương [ APEC ] [ 1998 ] ; ký Hiệp định Thương mại Nước Ta – Hoa Kỳ [ 2000 ] ; và từ năm 1995 đang trong quy trình đàm phán gia nhập WTO.  Nước ta đang từng bước trở thành một khâu trong mạng lưới sản xuất – kinh doanhtoàn cầu, trong đó có những hoạt động giải trí tương quan đến sự sản sinh truyền bá và sử dụng trithức. – Thứ tư, từng bước hình thành kiến trúc then chốt cho kinh tế tri thức : Hiện nay, mạng lưới viễn thông của Nước Ta đã được tự động hoá trọn vẹn với100 % những mạng lưới hệ thống chuyển mạch số và truyền dẫn số trải rộng trên toàn nước và kết nốivới quốc tế. Một loạt những dịch vụ bưu chính, viễn thông và Internet đã được tạo lập và mởrộng để cung ứng nhu yếu của người mua, Giao hàng những hoạt động giải trí sản xuất – kinh doanh thương mại, quản trị như nước, giáo dục, y tế, điều tra và nghiên cứu, vui chơi, giao tiếp3. Những việc hoàn toàn có thể làm, nhưng chưa làm được. Cũng nhìn nhận theo những đặc trưng hầu hết của kinh tế tri thức, trong những năm qua, có những việc tất cả chúng ta hoàn toàn có thể làm, hoặc hoàn toàn có thể làm tốt hơn, nhưng chưa làm được thểhiện hầu hết như sau : – Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa được cải tổ nhiều : Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao bộc lộ ở chỗ hiệu suất cao nền kinh tế còn thấp, năng lượng cạnh tranh đối đầu của những ngành kinh tế còn yếu, chuyển dời cơ cấu tổ chức kinh tế còn chậmvà chênh lệch về thu nhập giữa những bộ phận dân cư có khuynh hướng ngày càng tăng. Môi trường đầutư không không thay đổi và năng lượng yếu kém của cỗ máy hành chính đã làm tăng đáng kể chiphí thanh toán giao dịch và ngân sách nguồn vào sản xuất – kinh doanh thương mại. – Thứ hai, nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường còn non yếu, thiếu sót vànhiều méo móHệ thống thể chế kinh tế thị trường ở nước ta nhiều mặt, nhiều nghành chưa theo kịpdiễn biến trong thực tiễn của những hoạt động giải trí kinh tế, chưa không thiếu, chưa đồng điệu, xích míc, chồng chéo, không minh bạch, và nhất là năng lượng thực thi pháp lý còn yếu. Cải cáchhành chính diễn ra lừ đừ, khiến cho năng lượng tương hỗ của nền hành chính cho pháttriển kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng, thậm chí còn trong nhiều trường hợp những thủ tục hànhchính lỗi thời, rườm rà còn gây cản trở cho công cuộc phát triển. Một số thị trường rất quan trọng mới chỉ được hình thành rất sơ khai mà đã nhiều méomó, trong đó có thị trường khoa học và công nghệ tiên tiến. Hàng hoá trên thị trường khoa học vàcông nghệ còn nghèo nàn, lượng thanh toán giao dịch trên thị trường còn ít và đơn điệu. Thị trườngkhoa học và công nghệ tiên tiến Nước Ta chưa trở thành thiên nhiên và môi trường thiết yếu để khuyến khích sựsáng tạo và thay đổi. – Thứ ba, quy trình chuẩn bị sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế chưa mạnh và chưa đồng đều : Quá trình phát triển nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn chậm. PageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2N ước ta chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và toàn diện về hội nhập kinh tế quốc tế cũngnhư chưa có lộ trình hài hòa và hợp lý thực thi những cam kết quốc tế, do đó chưa kết nối được mộtcách hài hoà những lộ trình hội nhập ở những Lever và quy mô khác nhau : song phương, tiểukhu vực, khu vực, liên khu vực và toàn thế giới. Tính dữ thế chủ động của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như của doanh nghiệp trong hội nhậpkinh tế quốc tế chưa cao, thậm chí còn còn khá bị động trong nhiều nghành, mong ước tiếptục nhận được sự bảo lãnh từ phía Nhà nước. Sự bảo lãnh này đã hạn chế cạnh tranh đối đầu, tăngthêm sức ì và gánh nặng so với nền kinh tế, đồng thời ảnh hưởng tác động bất lợi đến quá trìnhhoạch định chủ trương. – Thứ tư, những nghành nghề dịch vụ biểu lộ đặc trưng của kinh tế tri thức chưa phát triển : Các ngành mới, đại diện thay mặt cho kinh tế tri thức [ hay gòn gọi là những ngành công nghệ cao ] hoặc chưa hình thành hoặc mới ở trình độ phát triển rất sơ khai. Số doanh nghiệp đầu tưmạo hiểm, góp vốn đầu tư cho điều tra và nghiên cứu và tiến hành [ R&D ] nhằm mục đích tạo ra công nghệ tiên tiến mới làkhông đáng kể. Đây hầu hết là những doanh nghiệp có vốn góp vốn đầu tư quốc tế, còn ViệtNam chỉ có 1 số ít doanh nghiệp nhà nước lớn có cơ sở hoạt động giải trí và nghiên cứu và điều tra pháttriển công nghệ tiên tiến, nhưng lượng vốn góp vốn đầu tư cho R&D của những doanh nghiệp này chỉ đạtkhoảng 0,2 % lệch giá, quá thấp so với tỷ trọng 5-10 % của doanh nghiệp tại những nướcphát triển. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước phần nhiều chưa thamgia hoạt động giải trí R&D. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống kinh tế – xã hội còn rất hạn chế. Mạngthông tin đa phương tiện tuy đã và đang được lan rộng ra khá nhanh, nhưng chưa bao phủđược khắp toàn nước, chưa liên kết được đến hầu hết những tổ chức triển khai và những hộ mái ấm gia đình. Bêncạnh đó, sự tiếp cận với mạng thông tin còn gặp phải nhiều ràng buộc tương quan đến cáckhía cạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, những thủ tục hành chính, pháp lý, giá cước … Điềunày ảnh hưởng tác động lớn đến sự tiếp cận của những thành viên trong xã hội với những thông tincần thiếtNền giáo dục, giảng dạy của nước ta đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bức xúc, thể hiện nhữngyếu kém dai dẳng trong nhiều năm chưa khắc phục được. Sự chậm thay đổi về phươngpháp dạy và học, nội dung chương trình, những hiện tượng kỳ lạ chạy theo thành tích, dạy thêmhọc thêm tràn ngập … đã được đề cập, luận bàn nhiều, nhưng chưa có những giải pháp hữuhiệu. Công tác xã hội hoá giáo dục diễn ra chậm, sự phân biệt đối xử so với những cơ sởgiáo dục ngoài công lập … góp thêm phần ngưng trệ sự phát triển giáo dục. Thực tế đó đã ảnhhưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực của Nước Ta, một nguồn nhân lực dồi dào về sốlượng lao động nhưng lại thiếu trầm trọng nguồn lao động có chất lượng  Như vậy, phát triển KTTT là tất yếu so với nước taPhát triển KTTT ở nước ta là một chuyển biến kế hoạch trọng đại : chuyển nềnkinh tế từ dựa vào tài nguyên sang dựa đa phần vào tri thức và năng lượng phát minh sáng tạo của conngười. Với những nguồn lực sẵn có, sử dụng tri thức mới, công nghệ tiên tiến mới để làm ra đượcnhiều hơn, tốt hơn, hiệu suất cao hơn. Tài nguyên vạn vật thiên nhiên là hạn chế, năng lượng phát minh sáng tạo conngười là vô hạn. PageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2N ước ta là nước đi sau, có thời cơ và thiết yếu phải đi tắt, phát triển KTTT ngaytrong quy trình CNH. Cùng một quy trình triển khai đồng thời hai trách nhiệm CNH và “ trithức hóa ”. Nói cách khác đó là CNH rút ngắn dựa trên tri thức. Xuất phát từ trong thực tiễn nướcta, nhu yếu hội nhập và nhu yếu phát triển rút ngắn buộc ta phải có kế hoạch hai vận tốc [ tuần tự và nhảy vọt ] Kinh tế tri thức cho ta thời cơ nhắm bắt và vận dụng phát minh sáng tạo những tri thức mới, phương pháp kinh doanh thương mại mới để thay đổi nền kinh tế nước ta : Tìm ra cái chưa biết là sáng tạocái mới, là tạo ra giá trị mới. Tạo ra của cải và nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu không riêng gì lànhờ tối ưu hóa và triển khai xong cái đã có, mà đa phần là do phát minh sáng tạo ra công nghệ tiên tiến mới, sảnphẩm mới, cách làm mới. 4. Nội dung quyết định hành động chỉ huy CNH-HĐH gắn với tri thức của Đảng ta [ 1996 – 2006 ] a ] Đại hội VIII [ 6/1996 ] – Đã đưa ra nhận định và đánh giá quan trọng : nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiệmvụ đề ra là tăng nhanh công cuộc thay đổi tổng lực và đồng điệu, liên tục phát triển nền kinhtế nhiều thành phần quản lý và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản trị của Nhà nước theođịnh hướng XHCN. – Đại hội VIII đã kiểm soát và điều chỉnh chủ trương CNH theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu độtphá, coi nông nghiệp tích hợp với công nghiệp chế biến là mặt trận số 1. Tiếp tụcthực hiện thoáng rộng hơn chủ trương Open, phát triển kinh tế nhiều thành phần, nâng caoquyền tự chủ sản xuất kinh doanh thương mại cho những doanh nghiệp. Gắn công nghiệp hóa với hiệnđại hóa, lấy khoa học – công nghệ tiên tiến làm động lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tốtrung tâm của CNH, HDH. Đặt ra nội dung đơn cử của công nghiệp hóa, hiện đại hóatrong những năm trước mắt [ 1996 – 2000 ] là “ đặc biệt quan trọng coi trọng CNH, HDH nông nghiệpnông thôn … ”. Kết quả là : + Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1996 : 9,3 % ; 2000 : 6,75 % + Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1996 : 14,5 % ; 2000 : 10,1 % + Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1996 : 4,4 % ; 2000 : 4 % + Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 1996 : 33,2 % ; 2000 : 24 % + Cơ cấu kinh tế 1996 : 27,8 – 29,7 – 42,5 [ % ] ; 2000 : 24,3 – 36,6 – 39,1 [ % ] b ] Đại hội IX [ 4/2001 ] và Đại hội X [ 4/2006 ] Đại hội IX [ năm 2001 ] và Đại hội X [ năm 2006 ] Đảng ta liên tục bổ trợ và nhấnmạnh 1 số ít điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa : – Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và hoàn toàn có thể rút ngắn thời hạn so với cácnước đi trước. Đây là nhu yếu cấp thiết của nước ta nhằm mục đích sớm thu hẹp khoảng cách vềtrình độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên quốc tế. Một nước đi sau cóPageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 điều kiện kèm theo tận dụng những kinh nghiệm tay nghề kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và thành quả của những nước đitrước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngăn thời hạn. – Tuy nhiên, triển khai công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với những nước đi trước, tất cả chúng ta cần thực thi những nhu yếu như : Phát triển kinh tế và công nghệ tiên tiến phải vừa cónhững bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt ; phát huy những lợi thế của quốc gia, gắnCNH với HĐH, từng bước phát triển kinh tế tri thức ; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinhthần của con người Nước Ta, đặc biệt quan trọng coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo và giảng dạy, khoa họcvà công nghệ tiên tiến, xem đây là nền tảng và động lực cho CNH, HĐH. – Hướng CNH, HĐH ở nước ta là phải phát triển nhanh và có hiệu suất cao những sảnphẩm, những ngành, những nghành có lợi thế, phân phối nhu yếu trong nước và xuất khẩu. – CNH, HĐH quốc gia phải bảo vệ kiến thiết xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải triển khai CNH trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại. – Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với việc nâng cao hiệu suất, chấtlượng mẫu sản phẩm nông nghiệp. – Đẩy mạnh CNH, HĐH phải thống kê giám sát đến nhu yếu phát triển vững chắc trongtương lai. 5. Triển vọng từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Nước Ta. – Vì là một nước đang phát triển và đang chuyên đổi, nên quy trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là một quy trình triển khai đồng thời ba trách nhiệm : kinh tế nôngnghiệp chuyển sang kinh tế công nghiệp và kinh tế công nghiệp chuyển sang kinh tế trithức cùng một lúc và trong quan hệ thôi thúc lẫn nhau với việc chuyển từ kinh tế kế hoạchtập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường xu thế XHCN. Ba trách nhiệm ấyphải được thực thi đồng thời, lồng ghép vào nhau, tương hỗ nhau, bổ trợ cho nhau. Địnhhướng cực kỳ quan trọng là phải chớp lấy những tri thức và công nghệ tiên tiến mới nhất của thời đạiđể hiện đại hoá nông nghiệp và những ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh cácngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công nghệ tiên tiến, chuyển dịchcơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh những ngành kinh tế tri thức. – Các nhóm việc làm cần làm : + Nhóm việc làm thứ nhất : thực thi những chủ trương và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được quyết định hành động trong những văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nướcta. + Nhóm việc làm thứ hai : kết nối mật thiết với nhóm việc làm thứ nhất, có phần hainhóm lồng vào nhau, là tạo lập những yếu tố cơ bản bắt đầu để “ từng bước phát triển kinh tếtri thức ” và tăng nhanh phát triển 1 số ít ngành, nghành nghề dịch vụ của kinh tế tri thức. Cách thức vàbước đi của việc thực thi hai nhóm việc làm này sẽ được trình diễn rõ hơn dưới đây. III. KẾT LUẬNTri thức khoa học là một trong những yếu tố được trái đất chăm sóc nhất trongthời gian đại thời nay. Bởi lẽ, nếu không có khoa học công nghệ tiên tiến thì đã không hề có vàsẽ không hề có phát triển của xã hội loài người, lịch sử vẻ vang xã hội là quy trình con ngườikhông ngừng nhận thức và tái tạo quốc tế bằng khoa học công nghệ tiên tiến : khoa học công nghệPageBÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 gắn bó ngặt nghèo với sản xuất, tác động ảnh hưởng can đảm và mạnh mẽ tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đối với Nước Ta, tri thức khoa học công nghệ tiên tiến đang giữ một vai trò cực kỳ quan trọng vàquyết định so với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia, vừa là nền tảng vừalà động lực. Vì vậy tất cả chúng ta cần nhận thức được tầm quan trọng của tri thức và tri thứckhoa học để hoàn toàn có thể xu thế được hướng phát triển của quốc gia. Thực tiễn đã chứng tỏ những công dụng của kế hoạch công nghiệp hoá, hiện đạihoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là điều kiện kèm theo tất yếu khách quan để cho những nướcnghèo, lỗi thời hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với những nước giàu, tạo ra sự đột phávề kinh tế và khoa học công nghệ tiên tiến. Vì vậy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phảigắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Để có những quan điểm, bước tiến đúng đắn, phùhợp giữa lý luận và thực tiễn tất cả chúng ta phải không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinhnghiệm quý báu của những nước đi trước, coi trọng việc tổng kết, kiểm điểm sau mỗi chặng, vạch kế hoạch phương hướng thời gian ngắn, trung hạn và cả dài hạn để cho sự nghiệp côngnghiệp hoá, hiện đại hoá được thực thi một cách không thay đổi, vững chắc gắn liền với quốcphòng bảo mật an ninh, công minh xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên … Để tiến hành thuận tiện và thựchiện thành công xuất sắc sự nghiệp này yên cầu phải không ngừng tìm kiếm, tạo dựng những tiềnđề cần thiêt đó là : • Huy động vốn và sử dụng có hiệu suất cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá yên cầu vốn rất to lớn. Do đó, lan rộng ra quy mô huyđộng và sử dụng có hiệu suất cao những nguồn vốn là một điều kiện kèm theo tiền đề quan trọng để côngnghiệp hoá, hiện đại hoá thành công xuất sắc. • Đào tạo nguồn nhân lực. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ yên cầu phải có vốn, khoa học kỹ thuật, tàinguyên … mà còn cần phải phát triển một cách tương ứng năng lượng của con người sửdụng những phương tiện đi lại đó. Nguồn nhân lực phân phối nhu yếu công nghiệp hoá, hiện đạihoá gồm có những con người có đức, có tài, ham học hỏi, mưu trí, phát minh sáng tạo, làmviệc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc ; được chuẩn bị sẵn sàng tốt về kiếnthức văn hoá, được giảng dạy thành thạo về kỹ năng và kiến thức nghề nghiệp, về năng lượng sản xuất kinhdoanh, về quản lý vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học – kỹ thuậtvươn lên ngang tầm quốc tế. • Phát triển khoa học và công nghệ tiên tiến. Khoa học công nghệ tiên tiến được xác lập là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Nó có vai trò quyết định hành động lợi thế cạnh tranh đối đầu và vận tốc phát triển kinh tế nóichung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng của những vương quốc. Do đó cần phải xây dựngPage10BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 và triển khai tốt chính sách và chủ trương đồng điệu cho phát triển khoa học công nghệ tiên tiến trướchết phải tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học công nghệ tiên tiến • Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển thoáng đãng và cóhiệu quả bao nhiêu thì sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia càng được tiến hànhthuận lợi và càng thành công xuất sắc nhanh gọn bấy nhiêu. Thực chất của viêc lan rộng ra kinh tếđối ngoại là nhằm mục đích lôi cuốn nhiều nguồn vốn bên ngoài, là việc tiếp thu khoa học kỹ thuậtvà công nghệ tiên tiến hiện đại, là việc lan rộng ra thị trường cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiệnđại hoá được thuận tiện. • Tăng cường sự chỉ huy của Đảng và quản trị của Nhà nước. Đây là tiền đề quyết định hành động thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ởnước ta. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia tự bản thân nó đã là một cuộcđấu tranh gian nan của nhân dân ta.  Là một sinh viên vừa bước vào ngưỡng cửa ĐH, là nhà kinh tế tương lai của đấtnước, ngay từ giờ đây, tất cả chúng ta cần phải nhận thức rõ được vị trí của bản thân, xác địnhđúng vị trí vai trò to lớn của tri thức khoa học trong sự nghiệp thiết kế quốc gia. Để sựnghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nước Ta thành công xuất sắc, để khoa học công nghệ tiên tiến trởthành nền tảng yên cầu sự nỗ lực mọi mặt trong việc tiếp thu và phát triển công nghệ tiên tiến caocủa toàn bộ tất cả chúng ta một cách hiệu qủa. Page11

Video liên quan

Chủ Đề