Tại sao nói hiệp ước bali lại khởi sắc

You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an alternative browser.

  • Người khởi tạo Châu Lý
  • Ngày gửi 7/1/22

Hiệp ước Bali [2-1976] là hiệp ước hòa bình được ký kết năm 1976 giữa các quốc gia thành viên ASEAN với mục đích là thúc đẩy nền hoà bình vĩnh viễn, sự thân thiện và hợp tác lâu bền giữa nhân dân các bên tham gia Hiệp ước, góp phần vào sức mạnh, tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn. Vì sao hiệp ước Bali [2-1976] đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN? Hãy để Toploigiai chia sẻ thông tin tới bạn trong bài viết này.

Câu hỏi:Vì sao hiệp ước Bali [2-1976] đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN?

A.Kinh tế ASEAN bắt đầu tăng trưởng

B.Mối quan hệ giữa các nước hoà dịu

C.ASEAN được nâng tầm ảnh hưởng trên thế giới

D.Hiệp ước Bali xây dựng nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước

Trả lời:

Đáp án đúng là: D.Hiệp ước Bali xây dựng nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước

Hiệp ước Bali [2-1976] đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN vì Hiệp ước Bali xây dựng nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước.

Giải thích của giáo viên Toploigiai về việc chọn đáp án D

Hiệp ước Bali được kí kết vào thời gian tháng 2 -1976, Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali [Inđônêxia] tháng 2-1976, với việc kí “Hiệp ước thân thiện và hợp tác” ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Bali].

Hiệp ước Bali [2-1976] đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN vì Hiệp ước Bali xây dựng nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước. Đồng thời tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình; hợp tác, giúp đỡ nhau cùng phát triển.

* Nội dung hiệp ước Bali:

Hợp tác của ASEAN sẽ tính đến, cùng với các vấn đề khác, các mục tiêu và nguyên tắc sau đây trong việc theo đuổi sự ổn định chính trị:

Sự ổn định của mỗi Quốc gia thành viên và của khu vực ASEAN là một đóng góp thiết yếu cho hoà bình và an ninh quốc tế. Mỗi Quốc gia thành viên quyết tâm xoá bỏ mối đe doạ đối với sự ổn định của mình do lật đổ gây ra, để tăng cường tự cường của từng quốc gia và của ASEAN.

Các Quốc gia thành viên, riêng rẽ và tập thể, sẽ thực hiện các biện pháp tích cực để sớm thành lập Khu vực Hoà bình, Tự do và Trung lập.

Việc xoá bỏ nghèo đói, bệnh tật và mù chữ là mối quan tâm chính của các Quốc gia thành viên. Do vậy, các Quốc gia thành viên sẽ tăng cường hợp tác trong việc phát triển kinh tế, xã hội với sự nhấn mạnh đặc biệt đến việc tăng cường công lý xã hội và cải thiện mức sống của nhân dân các nước mình.

Thiên tai và những thảm hoạ lớn khác có thể làm trì trệ tốc độ phát triển của các Quốc gia thành viên. Các Quốc gia thành viên sẽ dành sự giúp đỡ cứu trợ với khả năng của mình cho các quốc gia bị thiên tai.

Quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp hợp tác trong các chương trình phát triển quốc gia và khu vực của mình, sử dụng càng nhiều càng tốt các nguồn lực hiện có trong ASEAN nhằm mở rộng khả năng bổ sung cho các nền kinh tế của mình

Các Quốc gia thành viên, trên tinh thần đoàn kết ASEAN, sẽ dựa chủ yếu vào tiến trình hoà bình để giải quyết những sự khác biệt trong khu vực.

Các Quốc gia thành viên, riêng rẽ và tập thể, sẽ phấn đấu tạo những điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy hợp tác hoà bình giữa các quốc gia Đông Nam á trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.

Các Quốc gia thành viên sẽ phát triển mạnh mẽ nhận thức về bản sắc khu vực và sẽ có mọi cố gắng để tạo ra một cộng đồng ASEAN vững mạnh, được tất cả các quốc gia tôn trọng, và tôn trọng tất cả các quốc gia trên cơ sở quan hệ cùng có lợi và phù hợp với nguyên tắc tự quyết, bình đẳng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia.

Toán 12

Ngữ văn 12

Tiếng Anh 12

Vật lý 12

Hoá học 12

Sinh học 12

Lịch sử 12

Địa lý 12

GDCD 12

Công nghệ 12

Tin học 12

Cộng đồng

Hỏi đáp lớp 12

Tư liệu lớp 12

Xem nhiều nhất tuần

Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Đông Nam Á bước vào thời kì phát triển kinh tế và văn hóa, đòi hỏi phải tăng cường hợp tác giữa các nước.

Sự kiện nào dưới đây đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN?

A.Thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] năm 1967

B.Thành lập tổ chức liên minh vì tiến bộ năm 1961

C.Kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác [Hiệp ước Bali] tháng 2 – 1976

D.Kí bản Hiến chương ASEAN năm 2007

Đáp án đúng C.

Sự kiện đánh dấu sự khởi sắc của tổ chức ASEAN là Kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác [Hiệp ước Bali] tháng 2 – 1976, Hiệp ước xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước, quy định về một ASEAN liên kết và hợp tác chặt chẽ hơn đối với các vấn đề quốc tế cùng quan tâm

Giải thích việc chọn đáp án đúng là C do:

– Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Đông Nam Á bước vào thời kì phát triển kinh tế và văn hóa, đòi hỏi phải tăng cường hợp tác giữa các nước.

– Các nước Đông Nam Á muốn hạn chế ảnh hưởng và sự can thiệp của các nước lớn ngoài khu vực.

– Xu thế khu vực hóa mở rộng, cách mạng khoa học- kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sự thành công của Khối thị trường chung châu Âu.

– Ngày 8-8-1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan].

– Trong giai đoạn đầu [1967 – 1975] ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế.

Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali [Inđônêxia] tháng 2-1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Bali].

– Nội dung của Hiệp ước Bali [2/1976]:

Hiệp ước Bali [2-1976] xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước:

+ Hiệp ước Bali quy định về một ASEAN liên kết và hợp tác chặt chẽ hơn đối với các vấn đề quốc tế cùng quan tâm, thúc đẩy hơn nữa tiếng nói chung của ASEAN tại các diễn đàn quốc tế liên quan.

+ Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;

+ Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực đối với nhau.

+ Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.

+ Hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Hiện nay, quốc gia nào trong khu vực Đông Nam Á vẫn chưa gia nhập ASEAN?

Nội dung nào sau đây không phải hạn chế của chiến lược kinh tế hướng ngoại?

Sự khác biệt cơ bản nhất giữa tổ chức Liên hợp quốc và ASEAN là gì?

ASEAN + 3 là sự hợp tác của ASEAN với quốc gia nào?

Cộng đồng ASEAN chính thức được thành lập vào thời gian nào?

Thách thức của Việt Nam khi gia nhập ASEAN là gì?

Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] thành lập trong bối cảnh

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN - Association of Southeast Asian Nations] ra đời trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều chuyển biến to lớn vào nửa sau những năm 60 của thế kỷ XX.

Sau khi giành được độc lập, các nước Đông Nam Á bước vào thời kỳ phát triển kinh tế trong điều kiện rất khó khăn, nhiều nước trong khu vực thấy cần có sự hợp tác với nhau để cùng phát triển. Đồng thời, họ cũng muốn hạn chế ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài đối với khu vực, nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Đông Dương đang bị sa lầy.

Những tổ chức hợp tác mang tính khu vực trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều và những thành công của Khối thị trường chung châu Âu có tác động cổ vũ các nước Đông Nam Á tìm cách liên kết với nhau.

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của 5 nước: In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Quan hệ giữa các nước Đông Dương [Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia] với ASEAN được cải thiện sau thời kỳ căng thẳng giữa hai nhóm nước [từ cuối thập kỉ 70 đến giữa thập kỉ 80] về “vấn đề Cam-pu-chia”. Việt Nam và ASEAN bắt đầu quá trình đối thoại, hòa dịu.

Kinh tế các nước ASEAN bắt đầu tăng trưởng.

ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên: Năm 1984, Bru-nây gia nhập ASEAN. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Ba-li và ngày 18 - 7 - 1995, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN. Tiếp đó, nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã gia nhập vào ASEAN như Lào và Mian-ma [năm 1997] và Cam-pu-chia [năm 1999].

Tháng 11 - 2007, các nước thành viên đã kí bản Hiến chương ASEAN nhằm xây dựng ASEAN thành một cộng đồng vững mạnh.

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [viết tắt theo tiếng anh là ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Năm 1984, Brunây gia nhập và trở thành thành viên thứ sáu của ASEAN.

Từ đầu những năm 90, ASEAN tiếp tục mở rộng thành viên của mình trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều thuận lợi. Năm 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Bali. Tiếp đó, ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ bảy của ASEAN. Tháng 7 - 1997, Lào và Mianma gia nhập ASEAN. Đến năm 1999, Campuchia được kết nạp vào tổ chức này.

Như vậy, từ 5 nước sáng lập ban đầu, đến năm 1999, ASEAN đã phát triển thành mười nước thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, cùng phát triển.

Dựa vào các thông tin được cung cấp dưới đây để trả lời các câu hỏi sau:

Ngày 8 - 8 - 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [viết tắt theo tiếng anh là ASEAN] được thành lập tại Băng Cốc [Thái Lan] với sự tham gia của năm nước: Inđônêxia, Malayxia, Xingapo, Thái Lan và Philíppin.

Mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nỗ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.

Trong giai đoạn đầu [1967 - 1975], ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc của ASEAN được đánh dấu từ Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li [In-đô-nê-xi-a] tháng 2 - 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á [gọi tắt là Hiệp ước Ba-li].

Hiệp ước Ba-li đã xác định những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực với nhau; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; hợp tác phát triển có hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội.

Từ 5 nước sáng lập ban đầu, đến năm 1999, ASEAN đã phát triển thành mười nước thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, cùng phát triển.

Video liên quan

Chủ Đề