Sự khác nhau giữa prokaryote và eukaryote

Tế bào prokaryote là gì? Cấu tạo của tế bào prokaryote như thế nào trong cá thể? Đó là một trong cách gợi mở để bắt đầu tìm hiểu về loại tế bào này đối với học sinh Thpt của các thầy cô giáo. Cùng nhau tìm hiểu cụ thể về vấn đề này ngay dưới đây nhé.

Tế bào prokaryote là gì?

Tế bào prokaryote hay còn gọi là tế bào nhân sơ, tế bào sơ hạch. Đây là loại tế bào có kích thước rất nhỏ, cấu trúc của tế bào prokaryote đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào eukaryote [tế bào nhân thực].

Cấu tạo tế bào prokaryote

Cấu tạo tế bào prokaryote gồm 3 thành phần chính: màng sinh chất, tế bào chất và vùng nhân. Ngoài ra, nhiều loại tế bào prokaryote còn có thành tế bào, vỏ nhầy, roi và lông.

Thành tế bào, màng sinh chất, lông và roi.

Trình bày khái niệm cấu trúc chức năng thành tế bào prokaryota?- Phần lớn các cấu tạo tế bào prokaryote đều có thành tế bào. Các loài vi khuẩn là peptiđôglican được cấu tạo từ các chuỗi cacbohiđrat liên kết với nhau bằng các đoạn pôlipeptit ngắn là thành phần quan trọng trong cấu tạo của thành tế bào.

Dựa vào thành phần hóa học và của thành tế bào cấu trúc thành tế bào prokaryote, vi khuẩn được chia làm 2 loại: gram âm và gram dương. Khi áp dụng phương pháp nhuộm gram, vi khuẩn gram âm có màu đỏ còn vi khuẩn gram dương có màu tím. Màng sinh chất nằm dưới thành tế bào, được cấu tạo từ 2 lớp phôtpholipit và prôtêin.

Một số loài vi khuẩn có roi và lông mao. Roi [tiên mao] có chức năng giúp vi khuẩn di chuyển. Ở một số loài vi khuẩn gây bệnh ở người, lông có chức năng giúp vi khuẩn bám được vào bề mặt tế bào.

Tế bào chất

Vị trí của tế bào chất là nằm giữa màng sinh chất và vùng nhân. Trong cấu tạo tế bào prokaryote, tế bào chất gồm 2 thành phần chính là bào tương và ribôxôm cùng một số cấu trúc khác.

Bào tương là một dạng chất keo bán lỏng chứa nhiều hợp chất hữu cơ và vô cơ khác nhau. Ribôxôm là bào quan được cấu tạo từ prôtêin và rARN, không có màng bọc và là nơi tổng hợp nên các loại prôtêin của tế bào.

Vùng nhân

Trong cấu tạo tế bào prokaryota, vùng nhân chỉ chứa một phân tử AND dạng vòng và không có các lớp màng bao bọc như tế bào nhân thực. Ngoài AND ở vùng nhân, một số vi khuẩn có có nhiều phân tử AND dạng vòng nhỏ khác [plasmit]. Tuy nhiên, plasmit vẫn là tế bào sinh trưởng bình thường không phải là vật chất tối cần thiết đối với tế bào prokaryota.

Cấu trúc tế bào Prokaryote và Eukaryote

Tế bào eukaryote là gì? – Tế bào eukaryote hay còn gọi là tế bào nhân thực, có cấu tạo bao gồm: màng sinh chất, tế bào chất và nhân – đây là đặc điểm chung của tế bào eukaryote và prokaryote, tuy nhiên các tế bào này có kích thước và cấu trúc phức tạp hơn rất nhiều tế bào nhân sơ. Dưới đây là bảng so sánh cấu trúc và chức năng các thành phần tế bào prokaryota và eukaryota:

Tế bào prokaryota [nhân sơ]

Tế bào Eukaryota [nhân thực]

Chủ thể chứa tế bào Vi khuẩn, vi khuẩn lam Động vật, thực vật, nấm
Kích thước và cấu tạo Kích thước bé từ 1 – 3mm, có cấu tạo đơn giản Kích thước lớn từ 3 – 20mm, có cấu tạo phức tạp
Vùng nhân Chứa một phân tử AND dạng vòng, chưa có nhân điển hình Có nhân điển hình, bao gồm màng nhân, trong nhân chứa chất nhiễm sắc và hạch nhân
Tế bào chất Chỉ chứa các bào quan đơn giản, ribôxôm nhỏ. Tế bào chất được phân thành các vùng chứa bào quan phức tạp như: ti thể, lạp thể, ribôxôm,.. ribôxôm lớn hơn
Phương thức phân bào Phương thức phân bào là phân đôi không có nguyên phân hay giảm phân Phương thức phân bào phức tạp, bao gồm nguyên phân và giảm phân
Lông và roi Lông và roi có cấu tạo đơn giản Lông và roi có cấu tạo phức tạp

Tế bào prokaryote là loại tế bào có kích thước rất nhỏ, cấu trúc của tế bào prokaryote đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào eukaryote. Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những phản hồi của các bạn sau khi đọc xong bài viết trên.

Theo Meovatbotui.com

MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNTuổi các các hóa thạch được cho là của eukaryote khơng q 900 triệu năm. Do vậy cần phải tìm tổ tiên của eukaryote trong số các prokaryote có trước chúng vềthời gian. Tất cả các eukaryote đều là các cơ thể hiếu khí, do vậy phải tập trung vào tìm ở các prokaryote hiếu khí. Tồn tại một số giả thiết về nguồn gốc của các tế bàoeukaryote. Trước tiên chúng ta hãy xem xét sự khác nhau giữa 2 loại tế bào này.

1.1. Sự khác nhau giữa tế bào prokaryote và eukaryote Th

ứ 1 : Các prokaryote là những dạng một tế bào hay dạng sợi với các tế bàokhông lớn, đường kính 10 µm. các tế bào eukaryote thường lớn hơn, chỉ có khơng nhiều tế bào có đường kính khơng đạt 10µ m. Ở eukaryote có khơng chỉ các dạng 1tế bào và dạng sợi, mà còn có cơ thể các dạng 2 chiều và 3 chiều có thể của giới động vật và thực vật. Các dạng đó sinh ra do kết quả phân chia tế bào. Sau khi phânchia, các tế bào eukaryote không tách ra khỏi nhau, mà ở lại dạng liên kết với nhau.Th ứ2 : Tất cả các eukaryote là những cơ thể hiếu khí, mặc dù một số trongchúng thực hiện chức năng như những cơ thể kị khí tạm thời, còn trong khía cạnh trao đổi chất các prokaryote rất đa dạng. Nhưng chúng lại có cấu trúc rất đơn giản,trong khi eukaryote có cấu trúc rất phức tạp: tế bào của chúng chứa nhiều bào quan khác nhau tách biệt khỏi các phần khác của tế bào bởi các màng đơi như nhân, ti thểvà lạp thể hay có 1 lớp màng kép lipid như lưới nội chất, bộ máy Golgi, không bào, lysosome…Sự đa dạng của màng trong các tế bào eukaryote tạo thành khả năng phân cách các đường trao đổi chất, trong khi các quá trình trao đổi chất liên hợp với màng ởprokaryote phải hoặc liên kết với màng cơ sở tế bào hoặc các màng thực hiện sự quang hợp.Th ứ 3: Cả tế bào prokaryote và eukaryote đều có các hệ thống di chuyển mà cơsở của chúng là các roi hay lông, tuy nhiên các hệ thống này khác nhau cả về mặt hóa học cũng như cấu trúc. Các roi của vi khuẩn cấu tạo từ protein bacillin và lànhững dải đặc khơng có cấu trúc bên trong. Ở eukaryote các lơng và roi cấu tạo chủ3MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNyếu từ protein tubulin và là một hệ thống các ống siêu nhỏ được xắp xếp theo kiểu 9+2 và liên kết với thể nền với cấu trúc kiểu 9 + 0. Khơng ở 1 lồi prokaryotephát hiện thấy các ống siêu nhỏ, trong khi ở eukaryote chúng đóng vai trò quan trọng trong chuyển động và cấu tạo nên thành tế bào và thoi phân chia.Hình 1. Phân bố các ống siêu nhỏ trong các bào quan của eukaryote liên quan đến chuyển độngTh ứ 4: Quá trình phân bào:Ở prokaryote các trong tế bào sinh sản bằng chia làm đôi. Giả định rằng ADN trần nămg trong vùng nhân được gắn vào mesosome – một cấu trúc liên kết vớimàng tế bào, cấu trúc này cũng được chia làm đoi và di chuyển về các phía khác nhau trong q trình sao chép ADN.4• •°° °°°°°°°° °°°°°° °°°°°° °°°°°°°° °°°°°° °°MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNCác tế bào eukaryote phân chí bằng con đường nguyên phân với tạo thành thoi vô sắc cấu tạo từ các ống siêu nhỏ.Mặc dù các sản phẩm cuối cùng là như nhau các tế bào con, nhưng giữa các q trình phân chí ở 2 loại tế bào khơng có điểm nào chung.Th ứ5 : Sản hữu tính:Trong sinh sản hữu tính ở eukaryote các thế hệ con cháu được thừa hưởng các đặc tính di truyền từ cả 2 bố mẹ. Ở prokaryote, ít nhất là ở một số vi khuẩn, xảy rachuyển thông tin di truyền từ 1 tế bào sang 1 tế bào khác, và đây là sự chuyển thông tin một chiều, khơng thể có trao đổi thơng tin di truyền 2 chiều.- Tất cả các prokaryote chỉ tồn tại ở pha đơn bội, trong khi ở eukaryote có sự luân chuyển các trạng thái đơn bội và lưỡng bội, còn các quá trình thụ tinh và phânbào giảm nhiễm đảm bảo tính hiệu lực của sinh sản hữu tính. - Ngồi ra, còn chưa biết đến 1 tế bào prokaryote nào có genom chứa 1 nhiễmsắc thể trần, trong khi ở eukaryote có nhiều nhiễm sắc thể và ADN của chúng thường liên kết với các Histone, tạo thành các cấu trúc nucleoproteid phát hiện được dướikính hiển vi. Tất cả các dẫn liệu trên đây cho thấy tế bào eukaryote phức tạp hơn nhiều sovới tế bào prokaryote, cho nên để hiểu được nguồn gốc của tế bào eukaryote chúng ta phải làm sáng tỏ vấn đề: Tế bào eukaryote đã sinh ra từ tế bào prokaryote do kếtquả của một q trình phát triển và phân hóa từ từ của các bào quan, hay là để đạt được tính phức tạp cấu trúc của mình, nó đã tiến hóa theo 1 con đường khác. Có 3giả thuyết được nêu ra về vấn đề này.5MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTN 1.2.Giả thiết về nguồn gốc của các tế bào eukaryote Giả thuyết 1: Thuyết cộng sinhTheo thuyết cộng sinh do Margulis đưa ra cách đây không lâu, tế bào eukaryote là một cấu trúc phức tạp, cấu tạo từ các tế bào một số loại sống cộng sinh với nhautrong giới hạn của một màng tế bào. Thuyết này khơng mới, nhưng ngày nay có nhiều bằng chứng từ kết quả nghiên cứu sinh hóa so sánh và vi cấu trúc.Cộng sinh là sự cùng tồn tại của 2 hay nhiều hơn các lồi, có lợi cho mỗi loài trong tất cả các loài này. Cvoongj sinh tồn tại ở các mức khác nhau của tổ chức sinhhọc, nhưng chúng ta chỉ quan tâm tới cộng sinh ở mức tế bào và đặc biệt là mức bên trong tế bào hay mức dưới tế bào.Tảo xanh Chlorella có thể được chuyển vào tế bào chất của Paramecium bursaria sinh vật nguyên sinh?, ở đây nó có thể tiếp tục quang hợp, cung cấp cho tếbào chủ các chất ding dưỡng thậm chí cả khi ở trong môi trường dưới tối thiểu. Các mối quan hệ cộng sinh qua lại tương tự tồn tại giữa tảo lam Cyanocyta và động vậtnguyên sinh Cyanophora; Một số loại thân mềm chân bụng thậm chí còn có thể lấy lục lạp từ các tế bào thực vật và đưa vào trong các tế bào của thân mềm đó. Ở bêntrong của tế bào thân mềm các lục lạp vẫn thực hiện được chức năng quang hợp. Trong các trường hợp này rõ ràng là sự cộng sinh là khơng bắt buộc đối với tếbào chủ, nhưng có lẽ lại cần cho thực vật. - Theo thuyết cộng sinh tế bào, các bào quan có cấu trúc hạt của các tế bàoeukaryote có nguồn gốc khơng phụ thuộc và sinh ra từ các tế bào prokaryote, chẳng hạn:+ Các plastid của cây xanh có nguồn gốc từ các tảo cộng sinh hiếu khí có khả năng quang hợp. Các tế bào này cũng chính là tổ tiên của các tảo lam ngày nay.+ Tương tự, ti thể của tế bào eukaryote đã sinh ra từ một vi khuẩn hiếu khí nào đó.6MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNGiả định rằng vi khuẩn này nằm trong cộng sinh với 1 tế bào kị khí khơng có khả năng quang hợp, mà buộc phải sống trong môi trường có O2, nhận được tế bào cộng sinh có khả năng sử dụng O2nhờ q trình hơ hấp. - Có nhiều dẫn liệu ủng hộ thuyết nguồn gốc cộng sinh. Nhóm dẫn liệu thứ nhấtgồm: + Các ti thể và plastid chứa ADN thường có dạng vòng, mARN bổ sung vớiADN, rARN, tARN và các enzyme cần thiết cho việc thực hiện chức năng của chúng.+ Các tARN này khác với các tARN tế bào chất theo một số trình tự nucleotide. + rARN của ti thể và plastid theo trình tự nucleotide rất giống rARN củaprokaryote. + Các ribosome của chúng nhỏ hơn ribosome tế bào chất và gần hơn vớiribosome của vi khuẩn và tảo lam. + Tổng hợp protein trên ribosome ti thể và lục lạp cũng mẫn cảm với khángsinh chloram-phenicol, nhưng không mẫn cảm với cycloheximide. Bối cảnh tương tự quá trình được ở vi khuẩn và tảo lam. Ngược lại, tổng hợp protein trong tế bàođộng vật và thực vật eukaryote mẫn cảm với cycloheximide, nhưng không mẫn cảm với chloramphonicol.Như vậy, giữa các bào quan của tế bào eukaryote và các tế bào prokaryote tồn tại một sự tương đồng cấu trúc và chức năng một cách kinh ngạc.- Như chúng ta biết rằng, hệ thống di truyền của các bào quan ngày nay không đủ phức tạp và đa dạng về mặt chức năng để thỏa mãn các nhu cầu của bào quan đó.Dưới góc độ tiến hóa điều này cũng dễ hiểu, bởi vì sự tiến hóa lâu dài của các mối quan hệ cộng sinh có thể dẫn tới mất đi các khả năng tổng hợp hay chuyển thông tinkhông phụ thuộc, đặc biệt là đối với những chức năng đúng hơn là gen mà trong nhân của tế bào chủ cũng có.Ví dụ, ở nấm men, một số protein của 2 enzyme ti thểATPase và cytochrome-oxydase được tổng hợp trên các ribosome ti thể, còn một7MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNsố protein – trên ribosome tế bào chất. Ở cây xanh enzyme chứa trong lục lạp - ribulose-1,5-diphosphate-carboxylase cấu tạo từ 2 loại tiểu đơn vị - lớn và nhỏ vớiMrbằng 50 000 và 14 000 Da, tương ứng, trong đó tiểu đơn vị lớn do gen lục lạp mã hóa, còn tiểu đơn vị nhỏ - do gen trong nhân tế bào mã hóa.Các protein ribosome của bào quan và tế bào chất của cùng 1 tế bào cũng rất khác nhau. Ví dụ, ở trùng roi đơn bào Chlamydomonas có khả năng quang hợpribosome lục lạp chứa 48 protein khác nhau và ribosome tế bào chất chứa 65 protein khác nhau. Phân tích protein từ 2 loại ribosome này cho thấy chỉ có 4 protein củachúng là gần nhau theo độ di động điện di, nhưng khi nghiên cứu sâu hơn bằng các phương pháp có độ nhậy cao hơn lại phát hiện được những khác biệt của 4 proteingần nhau này. - Dẫn chứng thứ 2 ủng hộ nguồn gốc cộng sinh của các bào quan là: theo tínhchất phân chia các bào quan giống prokaryote, chứ khơng giống eukaryote. + Ti thể, lạp thể và prokaryote sinh sản bằng cách phaan đơi, còn ở eukaryotexảy ra phân bào nguyên phân với tạo thành thoi phân chia + Mỗi ti thể hay lạp thể có thể chứa nhiều bản sao ADN của chúng, vì vậy sựphân chí bào quan đó và vật chất di truyền của nó khơng cần phải xảy ra với độ chính xác đặc trưng cho sự phân chia genom của các tế bào eukaryote.+ Đã biết rằng nếu tế bào chứa 1 plastid duy nhất, như ở Spyrogyra, hay 1 ti thể duy nhất như Microterias, thì sự phân chia tế bào đi kèm với phân chia bào quannày. Tuy nhiên, trong các tế bào của nhiều động vật và thực vật thường chứa nhiều các bào quan 2 loại này, đủ để cho trong phân bào mỗi tế bào con nhận được phầnbào quan của mình. - Sự có mặt của ADN trong ti thể và lục lạp cho thấy chúng cũng có thể bị độbiến, và có các tính trạng dấu hiệu di truyền riêng phụ thuộc vào phương thức truyền tính trạng từ thế hệ này cho các thế hệ khác.8MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTN+ Ở một loạt các thực vật quan sát thấy cái gọi là di truyền theo dòng mẹ. Ví dụ ở lúa mạch có nhiều đột biến theo diệp lục hay lục lạp. Một lượng lớn các đột biếnnày được di truyền theo kiểu di truyền Mendel, vì vậy nên cho rằng các gen đột biến khu trú trong nhân. Ở một số thể đột biến diệp lục lại quan sát được di truyền theodòng mẹ và đã xác định được rằng các đột biến tương ứng này khu trú trong lục lạp. lục lạp rất hiếm khi được truyền từ bố - qua hạt phấn. Tương tự, các ti thể đột biếnở nấm men chỉ được di truyền theo 1 dòng – bố hay mẹ, chúng xảy ra do các đột biến trong ADN ti thể.Như vậy, thuyết nguồn gốc cộng sinh của ti thể và plastid dựa trên rất nhiều các dẫn liệu gián tiếp.- Một ý tưởng có ít cơ sở hơn cũng nằm trong thành phần của thuyết công sinh là các bộ phận và bào quan khác của tế bào: các roi, lông, các trung thể và thoiphân bào nguyên nhiễm, cũng có nguồn gốc cộng sinh: đầu tiên các tế bào cộng sinh gắn và bề mặt ngồi của tế bào chủ, sau đó đi vào cấu trúc bên trong của tế bào này.Theo Margulis, đó là các vi khuẩn di chuyển được giống như xoắn khuẩn; chúng gắn vào tế bào chủ từ bên ngoài, mang lại khả năng di chuyển cho tế bào chủ này – mộtdấu hiệu thích nghi rõ ràng, nếu dự trữ thức ăn trong môi trường bao quanh ở một mức nào đó bị cạn kiệt. Có một số dẫn liệu ủng hộ ý kiến này:+ Trước tiên, dạng cộng sinh đó tồn tại cả ngày nay: sinh vật nguyên sinh Myxotricha paradoxa kí sinh trong đường tiêu hóa của mối, bản thân cơ thể này cósự di chuyển rất hạn chế, nhưng nhiều ngàn vi khuẩn cộng sinh di động găm vào lớp vỏ ngồi pellicula của nó đã làm cho sinh vật này di chuyển được.Có ý kiến cho rằng sự gắn thể cộng sinh như vậy là bước đầu tiên trên con đường nhận được khả năng di động đặc trưng cho eukaryote, và kết quả cuối cùng làthay thế sự phân chia đơn giản tế bào làm đơi bằng phân bào ngun nhiễm có tơ Ở vị trí gắn roi hay lơng vào tế bào eukaryote có 1 cấu trúc đặc biệt – thể nền, giốngtrung thể về cấu tạo, tức là cấu tạo từ các ống siêu nhỏ phân bố theo tip 9 + 09MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNBởi vì đã biết rằng các trung thể có thể thực hiện chức năng như các thể nền, nên giả định rằng 2 cấu trúc này là các cấu trúc tương tự nhau cùng nguồn. Ngoàira, cả trung thể và thể nền đều thực hiện chức năng là các tâm xác định định hướng của các ống siêu nhỏ: các thể nền xác định sự phân bố dọc của chúng trong các roi vàcác lơng, còn các trung thể iếp sát rìa ngồi của nhân thì liên kết với tạo thành các sợi của thoi trải dài từ từ một cực tới cực kia.Ở giai đoạn muộn hơn của tiến hóa các tâm động của các nhiễm sắc thể cũng tham gia vào xác định định hướng của các ống siêu nhỏ: do kết quả tương tác củachúng với các cực, các nửa sợi của thoi được tạo thành, chúng trải dài từ các nhiễm sắc thể ở kì giữa tới 1 trong 2 cực.Như vậy, các ống siêu nhỏ tham gia vào chuyển động của tế bào, cho dù đây là chuyển động ở bên ngoài tế bào như chuyển động của các roi và các lông, hay ở bêntrong tế bào như sự chuyển động của các nhiễm sắc thể trong kì cuối. Có một số phản đối giả thiết trên: trong các roi và lông của prokaryote các cấutrúc tip 9 + 2 hay 9 + 0 khơng có; protein bacillin thành phần cấu trúc của lông khác protein tubulin ở eukaryote; ở prokaryote khơng có trung thể và cũng khơng cóthể nền; các trung thể có khả năng sinh ra de novo; khơng có số liệu nào cho thấy các trung thể hay các thể nền chứa ADN, tức là có hệ thống di truyền khơng phụ thuộc.- Khơng có các giả thuyết thỏa mãn về nguồn gốc nhân của tế bào eukaryote., và cũng khơng tìm thấy các dấu hiệu sinh lí nào có thể liên kết với các tiền thânprokaryote của nó. Sau đây là một số giả thiết về nguồn gốc của nhân. Do nhân được bao quanh bởi lớp vỏ màng kép, cho nên rất có thể nhân cũng là sản phẩm thối hóacủa một thể cộng sinh nội bào nào đó, mà theo thời gian bị mất phần lớn tế bào chất. Trong trường hợp này tế bào lại tiến hóa theo hướng ngược lại – giữ lại tế bào chấtvà bị mất đi bộ máy di truyền của nó. Còn một số giả thiết khác, nhưng chúng đều khơng giải thích được nguồn gốc lớp màng kép của nhân.10MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTNDưới đây là sơ đồ giả định nguồn gốc các màng nội bào của tế bào eukaryote:Màng sinh chất của 1 trong các symbiont đầu tiênMàng trong Các màngRER Màng nhânSER Màng ngoàiBộ máy GolgiLysosome PeroxisomeSự lõm vào trong haySự tạo túi bọc của thể cộng Không bàoGiả thuyết 2: Thuyết tạo lõm màngTheo thuyết này, một loạt bào quan của tế bào eukaryote được sinh ra do màng tế bào lõm vào bên trong. Giả định rằng, tế bào tổ tiên là một tế bào prokaryote hiếukhí chứa ng genom và chúng đều được fgawns vào màng tế bào. Cũng giả định rằng tất cả các thể được tạo thành này do lõm màng vào đầu tiên giống nhau, và có lẽ cókhả năng quang hợp. Theo thời gian xảy ra sự phân chí lao động: nhân mất điâcs chức năng hô hấp và quang hợp, các chức năng này được thể hiện rõ hơn ở ti thể vàplastid. Diện tích bề mặt của ti thể và plastid tăng mạnh do có những lõm bổ sung của màng bên trong, tạo thành các cấu trúc gọi là crist và thylakoid; genom của cácbào quan này mất đi nhiều chức năng di truyền mà đã có trong nhân; còn nhân thì ngược lại, trở nên phức tạp hơn theo mức tăng tính phức tạp và sự đa dạng của cácloài cả về mặt cấu trúc và chức năng. Như vậy, theo thuyết tạo lõm màng thì tế bào eukaryote sinh ra từ 1 , chứ khôngphải sing ta từ nhiều tế bào. Khía cạnh tiến bộ của thuyết tạo lõm màng là ở điểm nó đưa ra sự giải thích thỏa đáng nguồn gốc các màng kép của nhân, ti thể và plastid.Ngoài ra, trong các trường hợp khi ở các prokaryote có các màng nội bào, như ở các vi khuẩn quang hợp, những màng này được tạo thành bằng con đường lõm màng tếbào.11MÉn Hoµng Huy – Lớp cao học K13 SHTN Giả thuyết 3: Thuyết tiến hóa nội bàoTheo thuyết thứ ba, tế bào prokaryote tổ tiên chứa nhiều genom hoặc genom duy nhất của nó bị chia ra thành nhiều phần, tạo thành các túi riêng biệt với các chứcnăng khác nhau. Và có lẽ giả định về nhiều genom là có cơ sở hơn là một genom duy nhất bị chia ra thành nhiều phần, vì các cơ chế mà nhân và các bào quan sử dụng đểmã hóa protein nhìn chung là như nhau, thêm nữa các chức năng của các bào quan được điều hòa bởi cả chính các bào quan đó và cả nhân. Về bản chất, sự cùng điềuhòa chức năng hơ hấp và quang hợp từ phía các bào quan và nhân chính là nguyên nhân đề xuất thuyết tiến hóa nội bào.

Video liên quan

Chủ Đề