So sánh nhanh như gì

ĐẶC ĐIỂM VẾ SO SÁNH TRONG THÀNH NGỮ SO SÁNH TIẾNG VIỆT


14-10-2020
Tác giả: PGS.TS. Hà Quang Năng

Nghiên cứu vêt so sánh của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt có thể khẳng định rằng vế so sánh phong phú về mặt cấu tạo, đa dạng về giả trị biểu hiện. Những từ ngữ biểu thị cách so sánh [B] thường gợi tả những hình tượng điển hình đậm đà màu sắc dân tộc. Qua vế B của thành ngữ so sánh, chúng ta có thể thấy được bóng dáng của cách nhìn, cách nghĩ, thấy được một phần cái dấu ấn của cảnh sắc thiên nhiên, điều kiện địa lí, đặc điểm một đất nước mang đậm dấu ấn nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thấy được bóng dáng của cách nhìn, cách nghĩ, cách ứng xử trong hoạt động lao động, sản xuất, trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam được phản ánh trong ngôn ngữ.

ĐẶC ĐIỂM VẾ SO SÁNH

TRONG THÀNH NGỮ SO SÁNH TIẾNG VIỆT

PGS.TS. Hà Quang Năng

Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam

1.Là một trong những di sản văn hoá rất có giá trị của dân tộc Việt Nam, thành ngữ đã trở thành một đối tượng được quan tâm nghiên cứu. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về thành ngữ tiếng Việt đã được công bố. Trong đó thành ngữ đã được nghiên cứu, phân tích từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Do tính chất đặc thù về cấu tạo hình thức và về nội dung ý nghĩa nên thành ngữ thường lưu giữ rất nhiều những đặc trưng phản ánh rõ cách tư duy, đặc điểm lịch sử văn hoá cũng như không gian, môi trường tự nhiên và xã hội của con người là chủ nhân của kho tàng thành ngữ đó.

Theo cách hiểu thông thường, thành ngữ là một loại cụm từ cố định, có hình thái cấu trúc bền vững, có ý nghĩa hoàn chỉnh, bóng bảy, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ. Như vậy, với tư cách là đơn vị từ vựng, thành ngữ có hai đặc trưng nổi bật.

Đặc trưng thứ nhất là tính cố định, bền vững về hình thái cấu trúc [thể hiện ở sự ổn định về số lượng và về trật tự của các yếu tố tạo nên thành ngữ trong sử dụng]. Đặc trưng thứ hai là tính hoàn chỉnh và bóng bảy về nghĩa [thể hiện ở tính trọn vẹn trong cách biểu thị những khái niệm, các sự vật, các thuộc tính, quá trình hay biểu tượng].

2.Theo kết quả nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố thì thành ngữ được cấu tạo theo nhiều kiểu khác nhau. Trong đó thành ngữ so sánh là một loại thành ngữ quan trọng trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt. Theo thống kê của chúng tôi, loại thành ngữ này có khoảng hơn 600 đơn vị. Thành ngữ so sánh là một cụm từ bền vững, được hình thành từ phép so sánh và thường có nghĩa biểu trưng. Ví dụ:

+Ăn ở như bát nước đầy

+Chắc như cua gạch

+Dai như đỉa đói

+Gắt như mắm tôm

+Len lét như rắn mồng năm

+Khéo nép như dâu mới về nhà chồng

+Là đừ như ông từ vào đền

Trong phép so sánh thông thường thì việc so sánh một sự vật này với sự vật kia chỉ thực hiện được khi giữa hai sự vật này phải có một đặc điểm, thuộc tính nào đó được coi là tương đồng. Nếu trong phép so sánh hai sự vật được đem ra so sánh bao giờ cũng phải thuộc cùng một phạm trù [chẳng hạn, Namcaobằng Hải, Ngôi nhà nàyđẹphơn ngôi nhà kia], thì trong phép so sánh nghệ thuật thì các sự vật, hiện tượng được đem ra so sánh lại không cùng một phạm trù và các đặc điểm, thuộc tính được dùng làm căn cứ so sánh giữa các sự vật hiện tượng... chỉ có tính chất tương đối, lâm thời. Chính đặc điểm này cho phép so sánh trong nghệ thuật có tính bất ngờ và tính hình tượng [5, 99].

Theo lí giải của Hoàng Văn Hành, cấu trúc lôgic của phép so sánh là:At1như Bt2, trong đó t1là thuộc tính của A, t2là thuộc tính của B. Cấu trúc lôgic này làm cơ sở cho cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh. Theo ông, giữa hai cấu trúc này không có tương ứng hoàn toàn về thành tố. Trong cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh, t2không bao giờ xuất hiện dưới dạng hiển ngôn. Do đó, mẫu tổng quát của cấu trúc ngôn ngữ của phép so sánh làAt như Bvới 4 dạng cụ thể như sau:

At như B

A như B

t như B

Như B [5, 9899].

"Trong thành ngữ so sánh, thành phần biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh [có thể gọi là cấu trúc so sánh [như B]] là bộ phận bắt buộc và ổn định trên cấu trúc bề mặt cũng như cấu trúc sâu. Nếu phá vỡ cấu trúc so sánh thì sẽ không còn thành ngữ so sánh nữa" [5, 100]. Do tính chất bắt buộc và ổn định như vậy nên việc lựa chọn từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh và cái so sánh, theo ý kiến của Hoàng Văn Hành, là "mang tính dân tộc sâu sắc". Trong tiếng Việt, các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh khá đa dạng:như, như thế, như thể là,tày, tựa, tựa như, bằng, là, như là, hơn..., nhưng trong thành ngữ so sánh thìnhưvàtàyđược dùng nhiều hơn cả.

3.Khảo sát 613 thành ngữ so sánh tiếng Việt chúng tôi thấy vế B có hình thái cấu trúc khá đa dạng. B luôn luôn hiển diện trong thành ngữ so sánh để cụ thể hoá cho vế A. Kết quả khảo sát, thống kê như sau:

Vế B được thể hiện là từ có 239 thành ngữ. Ví dụ:hùm, mèo, vôi, rận, vại,son, chết... [Ác nhưhùm, Ăn nhưmèo, Bạc nhưvôi, Bình chân nhưvại, Đỏ nhưson,Ngủ nhưchết].

Vế B được thể hiện là cụm từ có 190 thành ngữ. Ví dụ:

+Bầy nhầy như thịt bụng

+Béo như con cun cút

+Chạy như cờ lông công

+Cãi như như chém chả

+Chửi như hát hay

Vế B được thể hiện là một mệnh đề có 184 thành ngữ, ví dụ:

+Hùng hục như trâu húc mả

+Khép nép như dâu mới về nhà chồng

+Khư khư như ông từ giữ oản

+Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non

+Lầm rầm như đĩ khấn tiên sư

+Như dao cùn cắt thịt bụng

Về phương diện từ loại, trong số 239 từ có mặt trong vế B thì có tới 194 từ thuộc từ loại danh từ, chỉ có 44 từ thuộc từ loại động từ, có 1 đơn vị là số từ và đặc biệt không có đơn vị nào thuộc từ loại tính từ. Trong 190 cụm từ biểu thị vế B của thành ngữ so sánh thì cụm danh từ chiếm số lượng nhiều hơn [109 đơn vị], còn cụm động từ là 81 đơn vị. Có thể hình dung kết quả thống kê khảo sát đặc điểm hình thái cấu trúc của cái được so sánh [vế B] như sau:

Qua bảng trên, chúng ta thấy vế B là từ chiếm đa số với 39,73% trên tổng số thành ngữ so sánh, trong đó các từ thuộc từ loại danh từ chiếm 81,51%, động từ 18,49%, số từ 0,41%. Vế B do cụm từ đảm nhiệm cũng có số lượng lớn, chiếm 30,72% trên tổng số thành ngữ so sánh, trong đó cụm danh từ chiếm 57,37%, cụm động từ chiếm 43,21%. Vế B được thể hiện bằng cấu trúc C V chiếm 29,55% trên tổng số thành ngữ so sánh tiếng Việt. Như vậy, vế B có cấu trúc không thuần nhất và được thể hiện bằng danh từ, cụm danh từ chiếm số lượng lớn. Danh từ ở vế B đều là những sự vật, hiện tượng gần gũi với cuộc sống sinh hoạt đời thường của người dân Việt Nam. Chúng ta có thể bắt gặp những danh từ gọi tên con vật như:kiến, trâu, ve, ong, mèo, cóc, quạ, hùm, tôm, tằm...; tên gọi các loài thực vật như:cây lúa, củ khoa, gấc, nhãn, củ súng, tam thất, sung, ngô, sậy, ớt...; các sự vật, hiện tượng như:mưa, sắt, thép...trong vế B. Ví dụ:

+Ăn như mèo

+Ăn như hùm

+Dai như đỉa

+Béo như con cun cút

+Cao như sếu

+Câm như hến

+Câm như thóc

+Cao như núi

+Chấy rận như sung

+Chua như mẻ

+Dai như chão

Khi so sánh, việc xác định giá trị tương đương cho một thuộc tính, trạng thái hay tính chất nào đó của sự vật, của đối tượng thường được đặc trưng hoá bằng một đặc điểm nổi bật, điển hình của đối tượng được so sánh. Khảo sát vế B trong thành ngữ so sánh tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy rằng vế B là danh từ gọi tên sự vật chiếm số lượng lớn. Có tới 405 thành ngữ có vế B là danh từ và danh ngữ chỉ tên các vật, sự vật, hiện tượng trong tổng số 613 thành ngữ so sánh tiếng Việt. Cụ thể như sau:

- Thành ngữ có vế B chỉ tên con vật: 179

- Thành ngữ có vế B là tên gọi loài thực vật: 60

- Thành ngữ có vế B chỉ các hiện tượng tự nhiên: 83

- Thành ngữ có vế B chỉ đồ ăn, món ăn: 23

- Thành ngữ có vế B chỉ các tôn giáo, tín ngưỡng: 60

Dễ dàng nhận thấy là, số lượng vế B là một danh từ chỉ tên các loài vật chiếm số lượng không nhỏ. Có tới 179 thành ngữ có vế B chỉ tên con vật trên tổng số 612 thành ngữ so sánh tiếng Việt. Chúng đều là những con vật gần gũi với người Việt, như: [ăn] nhưmèo, [dai] nhưđỉa, [béo] như concun cút, [câm] nhưhến, [chắc] nhưcua gạch, [chậm] nhưrùa, [dát] nhưcáy, [dốt] nhưbò, [dữ] nhưcọp, [đen] nhưquạ, [gan] nhưcóc tía, [đông] nhưkiến, [gầy] nhưhạc, [hỗn] nhưgấu... Ngoài tên gọi các loài động vật, tên gọi các loài thực vật, tên gọi các hiện tượng tự nhiên, tên các tôn giáo, tín ngưỡng, tên các món ăn, đồ ăn cũng thường được sử dụng làm đối tượng được so sánh trong vế B của thành ngữ so sánh tiếng Việt. Sau đây là một số ví dụ minh hoạ:

· Vế B chỉ các hiện tượng tự nhiên: [chạy] nhanh nhưgió, [cao] nhưnúi, [của] nhưnước, [dài] nhưsông, [đang lên] nhưnước thủy triều, [lành] nhưđất, [lạnh] nhưbăng, [mạnh] nhưvũ bão, [lơ thơ] nhưsaobuổi sáng, [ngáy] nhưsấm, [nhanh] nhưchớp, [nhanh] nhưgió, [nhạt] nhưnước ao bèo, [như]mặt trăng mặt trời, [như]sétđánh ngang tai, [như]sao hôm sao mai...

· Vế B là tên gọi các loài thực vật: [nhẹ] nhưbấc, [ngọt] nhưmíalùi, [mỏng] như lálúa, [vàng] nhưnghệ, [đỏ] nhưgấc, [lành] như củkhoai, [đen] như hạtnhãn, [đen] như củsúng, [đen] như củtam thất, [chấy rận] nhưsung...

· Vế B là tên gọi các sự kiện, hiện tượng liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, như: [ăn khoẻ] nhưthần trùng, [ăn] nhưhộ phápcắn trắt, [chiều] như chiềuvong, [đứng] nhưbụtmọc, [giục] như giụctà, [giữ] nhưông thầygiữ ấn, [khư khư] nhưông từgiữ oản, [lảng vảng] nhưthành hoàngxuất ngoại, [lầm rầm] nhưthầy bóinhầm quẻ, [lật đật] nhưmavậtông vải, [lẩy bẩy] nhưCao Biềndậy non, [lừ đừ] nhưông từvào đền, [vắng] nhưchùaBà Đanh, [nghịch] nhưquỷ sứ...

· Vế B là tên gọi các món ăn, đồ ăn, như: [gắt] nhưmắm tôm, [chán] nhưcơm nếp nát, [như]cơm bữa, [dẻo] nhưkẹo, [gắt] nhưmắm, [ép] như épgiò, [ngọt] nhưđường phèn, [nhạt] nhưnước ốc, [nhẵn] như phản hàngthịt, [như]muốibỏ bể...

Vế B là động từ có số lượng không nhiều, chỉ có 44 đơn vị, chiếm 7,18% tổng số thành ngữ, chỉ bằng 1/5 số lượng vế B là danh từ [194 đơn vị, chiếm 31,69% tổng số thành ngữ. Ví dụ: [bắn] nhưmưa, [chạy] nhanh nhưgió, [đau] nhưcắt,[đau] nhưdần,[đói] nhưcào, [êm] nhưru, [ngủ] say nhưchết,...

Về lí thuyết, nếu kích thước vật chất của vế giải thích càng lớn thì mức độ rõ ràng, cụ thể sẽ càng cao. Điều này có thể lí giải cho việc vì sao vế B có cấu tạo là cụm từ hay mệnh đề có đến 371 thành ngữ, chiếm 50,27%. Trong đó vế B thể hiện bằng cụm danh từ là 109, chiếm 17,8% tổng số thành ngữ. Ví dụ: [lụ khụ] nhưông cụ bảy mươi, [lơ thơ] nhưsao buổi sáng, [chạy] nhưcờ lông công, [chị em dâu] nhưbầu nước lã, [đen] nhưcủ tam thất, [đẹp] nhưtranh tố nữ, [len lét] nhưrắn mồng năm... Vế B được thể hiện bằng cụm động từ là 81, chiếm 13,23% tổng số các thành ngữ. Ví dụ: [lúng búng] nhưngậm hột thị, [mắng] nhưtát nước vào mặt, [mừng] nhưbắt được của, [đắng] nhưngậm bồ hòn, [đông] nhưtrẩy hội, [đuổi] nhưđuổi tà, [ghét] nhưđào đất đổ đi... Vế B được thể hiện bằng mệnh đề là 181, chiếm 29,57%. Ví dụ: [chấp chới] nhưquạ vào chuồng lợn, [chắc] nhưđinh đóng cột, [đủng đỉnh] nhưchĩnh trôi sông, [lừ khừ] nhưông từ vào đền, [hùng hục] nhưtrâu húc mả, [giữ] nhưông thầy giữ ấn, [khép nép] nhưdâu mới về nhà chồng, [lang lảng] nhưchó cái trốn con, [lầm rầm] nhưđĩ khấn tiên sư, [mừng] nhưcha chết sống lại, [oai oái] nhưPhủ Khoáixin ăn, [dớn dác] nhưthằng lác té xuống ao,...

Kết quả khảo sát và thống kê cho thấy không có trường hợp nào vế B là tính từ hay tính ngữ. Điều này có thể giải thích từ đặc điểm ý nghĩa của tính từ. Là từ loại thứ ba trong khối thực từ, nhưng tính từ là từ loại thứ cấp so với đối lập danh động, vốn là nòng cốt quán xuyến cả hệ thống từ loại tiếng Việt [1, 131]. Ý nghĩa của danh từ có liên quan chặt chẽ với việc phản ánh thực tại nên danh từ có ý nghĩa sự vật là cơ bản và biểu thị những khái niệm được người bản ngữ tri nhận một cách độc lập như là những sự vật [1, 89]. Động từ chỉ ra đặc trưng vận động của tất cả những gì biểu đạt bằng danh từ. Còn tính từ vừa biểu đạt các đặc trưng đa dạng của thực thể [đặc trưng cho những gì biểu đạt bằng danh từ], lại vừa đặc trưng cho các vận động biểu đạt bằng động từ [1, 161]. Do đó, xét về bản chất ý nghĩa và cách thức biểu thị đặc trưng, tính từ là đơn vị định danh bậc hai [là tên gọi các đặc trưng cho thực thể và vận động].

4.Về mặt ngữ nghĩa, đặc trưng nổi bật của thành ngữ so sánh là vế B trong cấu trúc so sánhnhư Bbao giờ cũng có tầng nghĩa đôi [Hoàng Văn Hành, Thuật ngữ học tiếng Việt, tr.105]. Khảo sát các từ ngữ thuộc vế so sánh [vế B], chúng ta đều thấy rằng, như một quy luật, các từ ngữ thuộc vế này vẫn được dùng với ngĩa vốn có của mình, nhưng lại cốt để hàm một ý nghĩa khác của nó.Sêntrongchậm như sên,rùatrongchậm như rùathì vẫn là từcon sên, con rùamà chúng ta đều biết, nhưng trong vế so sánh của các thành ngữ trên thìsên, rùakhông chỉ gọi têncon sên, con rùamà chủ yếu là biểu trưng cho thuộc tínhchậmtrong hoạt động di chuyển của consên[rất chậm chạp trong di chuyển với vẻ nặng nề, không linh hoạt], khác với thuộc tính chậm của conrùa[quá chậm chạp trong di chuyển với vẻ khó khăn và nặng nhọc]. Ở đây không thể tách bạch được nghĩa đen với nghĩa bóng, không có sự đối lập nghĩa đen và nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng, mà nghĩa đen là cơ sở để nhận biết nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng của thành ngữ so sánh. Tầng nghĩa đôi của vế B trong thành ngữ so sánh có thể được hiểu rõ hơn nếu đặt trong sự so sánh với các thành ngữ có cùng chung A [cái được so sánh]. Về nghĩa mà xét, các từ ngữ biểu thị thuộc tính được so sánh [vế A] không có gì đặc biệt, vì chúng được dùng với nghĩa đen quen thuộc vốn có. Thật vậy, nghĩa củatrắngtrongtrắng như bông, không có gì khác với nghĩa củatrắngtrongtrắng như cướchaytrắng như ngà, cũng nhưtrắngtrongtrắng như trứng gà bóc. Tuy nhiên ngoài nghĩa cơ bản, nghĩa đen củatrắng"có màu như màu của vôi, của bông", thìtrắngcòn dùng ở tầng nghĩa biểu trưng cho một cách nhìn nhận, một thái độ bình giá của người nói [và cũng có tác dụng gây cho người nghe, người đọc một cách nhìn, một thái độ bình giá như thế] đối với thuộc tính trắng.Trắng như bônglà trắng ở mức độc cao, với vẻ tinh khiết.Trắng như cướclà trắngở mức độ cao, với vẻ bóng đẹp, mượt mà.Trắng như ngàlà trắng với vẻ óng mịn, trông rất đẹp.Trắng như trứng gà bóclà trắng với vẻ mịn màng, nõn nà, trông rất thích mắt.

Kết quả khảo sát vế B của thành ngữ so sánh cho thấy, nếu xét theo phạm vi sự vật, hình ảnh biểu trưng có thể chia ra các nhóm sau đây:

· Hình ảnh biểu trưng là động vật: dát nhưcáy, đông nhưkiến,gan nhưcóc tía, dữ nhưhùm,hỗn nhưgấu,đen nhưquạ, ăn nhưmèo,[bám] dai nhưđỉa,béo nhưlợn,câm nhưhến, cao nhưsếu,chậm nhưsên...

· Hình ảnh biểu trưng là các hiện tượng tự nhiên: nhanh nhưgió,của nhưnước,đang lên nhưnước thuỷ triều,đông nhưnước chảy,lơ thơ nhưsao buổi sớm,nhanh nhưchớp,như cờ gặpgió,nhưmặt trăng mặt trời,nhưnước với lửa,nhưsét đánh, nhưsao hôm sao mai,cao nhưnúi...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến các loài thực vật: cay nhướt,chân nhưống sậy, chết như ngảrạ,đắng như ngậmbồ hòn,đen nhưcủ tam thất,đỏ nhưgấc, hiền nhưcủ khoai, lanh chanh như hành không muối, lênh đênh như bè muống trôi sông, hứng như hứnghoa,mỏng nhưlá lúa,như ếch vồhoa dâm bụt,rẻ nhưbèo, rối nhưbòng bong...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến tín ngưỡng đời sống tâm linh: vắng nhưchủa Bà Đanh,sướng nhưtiên[Non Bồng], to nhưHộ Pháp, tối như cửađịa ngục,vắng nhưbãi tha ma, [ma lem, ma mút],chiều như chiềuvong, giục nhưgiụctà, giữnhư giữmả tổ,hiền nhưBụt,khư khư nhưông từgiữ oản, lảng vảngnhưthành hoàngxuất ngoại, lầm rầm nhưthày bóinhầm quẻ. [nhấm nhẳng] như chó cắnma, [nói] như thánhphán...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến con người [bộ phận cơ thể, nghề nghiệp]: buồn nhưcha chết,buồn nhưđĩvề già,mong như mongmẹvề chợ,chễmchệ nhưrể bà goá,giở mặt như giởbàn tay,im ỉm nhưgáingồi phải cọc,lăng xăng nhưthằngmất khố,dớn dác nhưthằng lácté xuống ao,lười nhưhủi,nhởn nhơ nhưcon đĩđánh bồng...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến các món ăn, đồ ăn và hoạt động ăn uống:chán như cơm nếp nát,chua nhưmẻ,dảo nhưkẹo kéo,chuyện nổ nhưbắp rang,dẻo nhưkẹo,đắt nhưtôm tươi,dửng dưng nhưbánh chưngngày tết,ép nhưépgiò,gắt nhưmắm tôm, gầy nhưcon mắm,khinh nhưmẻ,láo nháo nhưcháotrộncơm,mềm nhưbún...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến các đồ vật quen thuộc: trơ như mặtthớt,to nhưbồ sứt cạp,chòng chành nhưnónkhông quai,chắc nhưđinhđóng cột,chặtnhư nêm,chân nhưống đồng,coi trời bằngvung,dai nhưchão,cứng nhưsắt, dính như keo,dức nhưbúabổ,đau nhưdaocắt,đen nhưmực, đen như cột nhà cháy, đỏ như son, đẹp như tranh, êm như nhung, khô như ngói, vững nhưkiềng ba chân...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến các điển tích lịch sử văn hoá: chết đứngnhưTừ Hải,nóng nhưTrương Phi,nợ nhưChúa Chổm,lẩy bẩy nhưCao Biềndạy non, đa nghi nhưTào Tháo,giàu nhưThạch Sùng,oai oái nhưPhủ Khoái xin ăn,nhưvợ chồng Ngâu...

· Hình ảnh biểu trưng liên quan đến các hiện tượng xã hội: lầm rầm nhưđĩ khấn tiên sư,ấm oái nhưhai gái chung nhau một chồng, khép nép nhưdấu mời về nhà chồng,dấm dẳng nhưchó cắn ma, khinh khỉnh nhưchĩnh mắm thối,làm nhưnhà trò giữ nhịp,lang lảng nhưchó trốn con,luẩn quẩn nhưchèo đò đêm,lúng túng nhưgà mắc tóc,nhưrựa chém xuống nước,nhưtrứng quẩy đầu gậy,nhưếch ngồi đáy giếng.

Sự đa dạng và phong phú của thế giới hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ so sánh tiếng Việt là tấm gương phản ánh đặc điểm địa lí, đặc điểm thiên nhiên và đặc điểm đời sống sinh hoạt lao động sản xuất cũng như đặc điểm văn hoá của dân tộc Việt Nam. Đó là những hình ảnh rất quen thuộc nhưng rất tiêu biểu và đặc trưng cho đất nước ta thuộc vùng khí hậu nhiệt đới. Chính đặc điểm địa lí, đặc điểm thiên nhiên và khí hậu này đã ảnh hưởng rõ rệt và chi phối cuộc sống, chi phối hoạt động lao động sản xuất, chi phối nhận thức của người Việt, được người Việt phản ánh, gọi tên các sự vật, hiện tượng qua các từ ngữ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Các sự vật, hiện tượng, đối tượng được đem ra so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt đã cho thấy rõ điều này.

Trước hết, đó là một đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với nhiều mưa bão, sấm chớp, nắng gió:mưa như trút nước, mưa như nước đổ, nắng như đổ lửa, nhạt như nước ốc, bắn như mưa, nhanh như gió, đang lên như nước thuỷ triều, dâng lên như nước vỡ bờ, đông như nước chảy, mạnh như vũ bão, ngáy như sấm, nhanh như chớp, như diều gặp gió, như vịt nghe sấm. Qua vế so sánh chúng ta bắt gặp một đất nước mang đậm dấu ấn nông nghiệp với các vật dụng quen thuộc với nhà nông nhưcái bồ sứt cạptrongto như bồ sứt cạp,cái vạitrongbình chân như vại, cái kiềngtrongvững như kiềng ba chân, cái thớttrongtrơ như mặt thớt, con daotrongđau như dao cắt, cái búatrongdức như búa bổ. Các món ăn hết sức bình dân và phổ biến nhưmắm tômtronggắt như mắm tôm, canh hẹtrongrối như canh hẹ, cơm nếptrongchán như cơm nếp nát, bánh chưngtrongdửng dưng như bánh chưng ngày tết, cá mắmtronggầy như cá mắm. Các loại cây, hoa màu, củ quả của vùng nhiệt đới cũng xuất hiện nhiều trong vế so sánh của thành ngữ so sánh, như:rụng như sung, rách như sơ mướp, đen như củ súng, đen như củ tam thất, trắng như bông, cay như ớt, đỏ như gấc, hiền như củ khoai, ngọt như mía lùi, rối như canh hẹ, mỏng như lá lúa, chân như ống sậy, chuyện nổ như ngô rang, chấy rận như sung, đen như hạt nhãn... Các loài gia súc, gia cầm, các loài động vật gắn liền với đời sống người nông dân như trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngỗng... cũng xuất hiện nhiều lần trong vế so sánh của thành ngữ so sánh:khoẻ như trâu, dốt như bò, lạch bạch như vịt bầu, chữ như gà bới, chậm như rùa, chắc như cua gạch, yếu như sên, ăn như mèo, đắt như tôm tươi, có chồng như ngựa có cương, coi mạng người như ngoé, dai như đỉa đói, dát như cáy, dữ như hùm, đen như quạ, câm như hến, đông như kiến, gan như cóc tía, gầy như hạc, giãy lên như bị ong đốt, gầy như xác ve... Các nghề thủ công với dụng cụ thô sơ, cách thao tác đơn giản cũng được phản ánh qua những hình ảnh quen thuộc:ngáy như kéo bễ, đen như đồng hun, ăn như thợ đấu, đông như mắc cửi, lật đật như sa vật ống vải, nát như tương [Bần], ngáy như kéo cưa, như tằm ăn rỗi... Những hình ảnh biểu trưng này hoàn toàn phù hợp với đặc trưng văn hoá vùng Đông Nam Á mà Việt Nam là một tiểu vùng của không gian này: làm ruộng cấy lúa, nuôi gia súc, gia cầm, dùng đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi thuyền. Đặc biệt, phương thức canh tác của nền nông nghiệp lúa nước và các sản phẩm của nó đã ăn sâu vào lối tư duy, cách làm việc của người Việt thể hiện rõ qua hình ảnh cây lúa nước với nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ: câm nhưthóc,mỏng như lálúa,chắc như tên bắn đụnrạ, chết như ngảrạ,chán nhưcơm nếpnát,buồn nhưtrấucắn, câm nhưthóc trẩm ba mùa, chữ nhưtrấutrát, lép nhưtrấu, mềm nhưbún, muỗi như trấu, láo nháo nhưcháovớicơm,... Hình ảnh biểu trưng của vế B cho chúng ta thấy đời sống tinh thần mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng, tôn giáo phổ biến nhất ở nước ta: hiền như Bụt, vắng nhưchùa Bà Đanh, lừ đừ nhưông từ vào đền, to nhưhộ pháp, khư khư nhưông từgiữ oản, lầm rầm như đĩ khấntiên sư,ăn cắp nhưranh,ăn nhưthần trùng,bối rối nhưbà sưđẻ, chiều như chiềuvong,đuổi như đuổità,giữ nhưthầygiữ ấn, lạy như tế sao. Hình ảnh biểu trưng của vế B không chỉ cho chúng ta thấy đời sống văn hoá tinh thần phong phú của người Việt với nhiều lễ hội: vui nhưtết,vui nhưtrẩy hội,len lét như rắnmồng năm,đông nhưtrẩy hội,cười nhưpháo ran, chạy nhưđèn cù,mà còn cả những dấu ấn những điển tích, điển cố, những câu chuyện lịch sử như nợ như chúa Chổm, lẩy bẩy nhưCao Biền dạy non, chết đứng nhưTừ Hải, nóng nhưTrương Phi, đa nghi nhưTào Tháo,giàu nhưThạch Sùng

Khảo sát vế B trong 613 thành ngữ so sánh tiếng Việt chúng tôi thấy rằng người Việt rất ít sử dụng thành ngữ so sánh để khen, để đánh giá những cái đẹp, cái hay cái tốt [kiểu như, đẹp như tiên, trắng như trứng gà bóc, ngọt như mía lùi, đỏ như son, êm như ru, hiền như Bụt,...]. Những câu thành ngữ so sánh mang sắc thái trung hoà trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt kiểu như:im lặng như tờ, chạy nhanh như gió, dài như sông, giống nhau như tạc, dễ như chơi,... chiếm số lượng rất nhỏ. Còn lại hầu hết những câu thành ngữ so sánh mà qua vế so sánh đều toát lên sự đánh giá tiêu cực, với hàm ý chê, mỉa mia rất sắc sảo và thâm thúy. Những câu thành ngữ như:ăn như hộ pháp cắn chắt, ăn ở như bát nước đầy, câm như thóc trẩm ba mùa, chấp chới như quạ vào chuồng lợn, ấm oái như hai gái lấy một chồng, đủng đỉnh như chĩnh trôi sông, lăng xăng như thằng mất khốđều cho thấy điều này. Điều đáng lưu ý là trong nhiều thành ngữ so sánh, người Việt sử dụng các hình ảnh biểu trưng [thể hiện qua vế B] mang hàm ý chê bai, mỉa mai rất mạnh, thẳng thừng, không nể nang, e ngại, nhiều khi thô tục, kiểu như:ngu như lợn, ngu như bò, hỗn như chó hỗn như gấu, chửi như tát nước vào mặt, dai như bò đái, giấu như mèo giấu cứt, béo như con trâu trương, đau như hoạn, mặt ngây như ngỗng ỉa, rầu rĩ như đĩ về già.

5. Nghiên cứu vêt so sánh của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt có thể khẳng định rằng vế so sánh phong phú về mặt cấu tạo, đa dạng về giả trị biểu hiện. Những từ ngữ biểu thị cách so sánh [B] thường gợi tả những hình tượng điển hình đậm đà màu sắc dân tộc. Qua vế B của thành ngữ so sánh, chúng ta có thể thấy được bóng dáng của cách nhìn, cách nghĩ, thấy được một phần cái dấu ấn của cảnh sắc thiên nhiên, điều kiện địa lí, đặc điểm một đất nước mang đậm dấu ấn nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thấy được bóng dáng của cách nhìn, cách nghĩ, cách ứng xử trong hoạt động lao động, sản xuất, trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam được phản ánh trong ngôn ngữ. Có thể khẳng định rằng, qua thế giới hình ảnh ở vế B trong thành ngữ so sánh, chúng ta có thể có được những đặc trưng tư duy, đặc trưng văn hoá của người Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Văn Đức [2010],Các bài giảng về từ pháp học tiếng Việt. Từ loại nhìn từ bình diện chức năng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Nguyễn Thiện Giáp [2005],Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

3. Hoàng Văn Hành [Chủ biên], [1988],Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, NXB Khoa học Xã hội, T. 1, T. 2, Hà Nội.

4. Hoàng Văn Hành [Chủ biên] [1991],Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, NXB Khoa học Xã hội, T. 3, Hà Nội.

5. Hoàng Văn Hành, [2004],Thành ngữ học tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Viện Ngôn ngữ học, [1998],Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, NXB Giáo dục.

Post by: Vu Nguyen HNUE
14-10-2020

Video liên quan

Chủ Đề