Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở liên xô 1917-1991

QPTD -Chủ Nhật, 14/08/2011, 23:16 [GMT+7]

Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về sự kiên định con đường xã hội chủ nghĩa

Sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, mô hình CNXH xây dựng trong thế kỷ XX [1917-1991] được coi là quan liêu bao cấp, duy ý chí, chưa phải là CNXH đích thực. Cho nên, một số nước XHCN còn lại đều đưa ra mô hình riêng theo quan điểm, nhận thức của mình. Việt Nam là một trong những nước XHCN còn lại tiếp tục con đường XHCN và đã đạt được những thành tựu to lớn, “có ý nghĩa lịch sử”.

Tiếp tục con đường XHCN là kiên định “xây dựng nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đồng thời với việc hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”1.

Trong những năm qua, Đảng và nhân dân ta nỗ lực phấn đấu và kiên định xây dựng một xã hội như thế; cho nên, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự phát triển trong thời gian tiếp theo. Trong nhiều năm liền, nước ta luôn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện, Việt Nam đã là điểm sáng về thành tựu xóa đói, giảm nghèo; trở thành “điển hình về phát triển và bảo đảm quyền con người”; do thực hiện tốt chính sách “hòa hợp dân tộc”, nên các dân tộc đều đoàn kết, đồng sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, chính trị ổn định, Việt Nam là môi trường đầu tư an toàn của các nhà đầu tư nước ngoài, là điểm hấp dẫn khách du lịch quốc tế, v.v.

Thực tiễn trên không những được nhân dân trong nước thừa nhận, mà còn được các tổ chức, cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Điều đó là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp tục sự kiên định con đường phát triển của đất nước một cách có cơ sở lý luận và thực tiễn. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay diễn ra trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những thời cơ và thách thức đan xen. Chúng ta phải tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, kiên định con đường XHCN. Trong quá trình đó, cần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn sau:

1. Tiếp tục khẳng định độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đây là vấn đề cơ bản, xuyên suốt, bảo đảm cho cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi trong giai đoạn trước đây cũng như từ nay về sau. Để xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường XHCN. CNXH đích thực vẫn là tương lai của nhân loại, vẫn là xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản [CNTB] hiện đại; vì CNTB hiện đại tuy có một số ưu điểm, thành tựu nhưng không thể khắc phục được quy luật vốn có của nó mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra [quy luật khủng hoảng kinh tế chu kỳ, quy luật diệt vong tất yếu của nó...]. Sự sụp đổ của nền tài chính Mỹ và các nước tư bản phát triển ở Tây Âu vừa qua phải chăng báo hiệu sự tất yếu đó của CNTB hiện đại.

Tại khoá họp thường niên lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 23-9-2008, Tổng thống Pháp N. Xác-cô-di - Chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Âu [EU] - đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chủ chốt của thế giới tổ chức một cuộc họp thượng đỉnh để rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay; đồng thời, “tái xây dựng một CNTB điều chỉnh”2. Vấn đề đặt ra là, vì sao lại phải tái xây dựng CNTB điều chỉnh? phải chăng nó đã hoàn toàn không có khả năng tránh khỏi khủng hoảng chu kỳ? Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng CNTB hiện đại đã không thể tránh được các cuộc khủng hoảng chu kỳ mà nó còn làm sâu sắc thêm các cuộc khủng hoảng, biến khủng hoảng kinh tế quốc gia thành cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cuộc khủng hoảng sâu sắc đến mức sự can thiệp của nhà nước có nền kinh tế lớn nhất hành tinh [Mỹ] với hơn một ngàn tỉ USD nhưng hiệu quả vẫn rất thấp và người ta còn đang lo ngại về nguy cơ quay trở lại của chủ nghĩa bảo hộ. Cuộc khủng khoảng đầu tiên của CNTB hiện đại trong thế kỷ XXI đã làm “sống lại” học thuyết Mác - Lê-nin. Tại Đức, C.Mác đã được bình chọn là công dân Đức vĩ đại nhất trong mọi thời đại, trong các dân tộc và là người có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới đương đại. Tại Nga, V.I.Lê-nin cũng được đánh giá là một trong những người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại của thế kỷ XX. Như vậy, trong sự bất lực của thể chế kinh tế TBCN hiện đại, nhân loại đã phải trở về với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để tìm lời giải đáp. Thêm vào đó, những năm gần đây sự xuất hiện trào lưu mới [cánh tả] hay còn gọi là CNXH Mỹ La-tinh3, chứng tỏ con đường XHCN vẫn là xu thế phát triển của thời đại.

Ngày nay, khi mà nhân loại đang tiến tới thời đại kinh tế tri thức [KTTT] thì những tiêu chí của CNXH và chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ sở để trở thành hiện thực; mặc dù, thời gian có thể phải nhiều năm. KTTT là nền kinh tế phát triển dựa trên tài nguyên trí tuệ là chủ yếu với những đặc điểm nổi bật: về lực lượng sản xuất, là nguồn nhân lực với vốn trí tuệ ngày càng cao; về quan hệ sản xuất, sở hữu và sử dụng luôn có sự đan xen và mở rộng, phân phối và trao đổi mang tính vừa hợp tác, vừa cạnh tranh cao.

Thực tiễn trên đây cũng là cơ sở để lý giải về mối quan hệ gắn kết giữa yêu nước với yêu CNXH. Sự khủng hoảng của CNTB hiện đại, sự “trở về” của nhân loại với học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đang làm cho vấn đề “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH” không chỉ là bài học lịch sử mà còn là yêu cầu của cả hiện tại và tương lai.

2. Ngay trong từng bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH phải thể hiện rõ tính ưu việt của CNXH. Thực tế hơn 20 năm đổi mới và phát triển, đất nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng được cả dư luận trong nước và thế giới ghi nhận. Tuy nhiên, nhận thức và đánh giá về tình hình đó lại có sự khác nhau, do cách nhìn nhận khác nhau. Có người cho rằng, có được thành tựu đó là do chúng ta đã trở lại với quy luật phát triển tự nhiên, tức là đi theo hướng TBCN. Lại có nhận thức cho rằng, do chúng ta quá nhấn mạnh định hướng XHCN nên đã tạo sự e ngại của các nhà đầu tư nước ngoài, vì thế tốc độ phát triển kinh tế tuy có nhanh, nhưng vẫn bị hạn chế... Điều đó đòi hỏi chúng ta vừa phải kiên định định hướng XHCN, vừa phải cụ thể hóa mô hình XHCN Việt Nam để mọi người dân thấy rõ và cảm nhận được tính ưu việt của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.

Những thành tựu của đất nước, như: xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh, ổn định chính trị - xã hội, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, hạn chế và khắc phục có hiệu quả những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, được thế giới công nhận, cần được phát huy. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần đầu tư thoả đáng hơn nữa các chính sách xã hội, như: trợ cấp thất nghiệp, bảo đảm y tế, phúc lợi xã hội... để cho người dân Việt Nam có thể cảm nhận được tính ưu việt của XHCN so với TBCN ngay trong quá trình xây dựng xã hội mới.

3. Trên cơ sở kiên định con đường đã chọn, biết tiếp thu, vận dụng những thành tựu của nhân loại vào xây dựng xã hội mới. Cho đến nay, đường lối đổi mới của Đảng đã đưa lại những thành tựu to lớn, được cả các nước theo con đường TBCN và con đường XHCN tán thành, ủng hộ nhưng với động cơ và nhận thức khác nhau. Chẳng hạn như: vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, các nước theo con đường TBCN thì cho rằng: đây là quá trình tư nhân hoá; còn chúng ta cho rằng, đây là quá trình phát triển kinh tế tư bản nhà nước, một bộ phận cấu thành nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, mà học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đề cập. Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng có ý kiến coi đây là đi theo CNTB. Nhưng, thực chất đó là sự vận dụng những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong giai đoạn phát triển của CNTB hiện đại vào xây dựng xã hội XHCN, chứ không phải là xa rời học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong xây dựng xã hội mới nói chung, thực hiện kinh tế thị trường nói riêng, chúng ta luôn quan tâm thực hiện các biện pháp định hướng XHCN để thể hiện rõ tính ưu việt của xã hội XHCN so với xã hội TBCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH...

Để tiếp tục kiên định con đường XHCN và tiếp thu những thành tựu của thế giới vào xây dựng xã hội mới, chúng ta cần giải quyết nhiều vấn đề; trong đó, hết sức chú ý đến một số vấn đề sau:

- Giữ vững sự lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam, chống mọi âm mưu thiết lập chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; vì sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn.

- Đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới. Trong quá trình đó, đặc biệt đề phòng nguy cơ “tự diễn biến”; vì nó đe dọa trực tiếp đến sự trường tồn của chế độ XHCN ở nước ta.

- Kiên trì đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; vì kinh tế nhà nước là cơ sở vật chất để Nhà nước điều tiết vĩ mô, định hướng phát triển của nền kinh tế.

- Tăng cường hợp tác với các nước tư bản phát triển để kế thừa và phát triển khoa học - công nghệ hiện đại và học tập trình độ quản lý của họ; vì đây là những quốc gia hàng đầu về tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ [có công nghệ cao, công nghệ gốc, công nghệ nguồn...], có vai trò chi phối thế giới. Thông qua quan hệ hợp tác có hiệu quả với họ, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu” trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, loại trừ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với một số nước trong khu vực. Đây cũng là những giải pháp mà các nước lớn, như: Nhật Bản, Trung Quốc, gần đây là Ấn Độ... áp dụng.

- Xây dựng quan hệ chiến lược với các nước theo định hướng XHCN; vì đây là mối quan hệ truyền thống giữa các nước có chung mục tiêu xây dựng CNXH [tuy mô hình, hình thức cụ thể khác nhau] và đều có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây sẽ là nhân tố quan trọng góp phần loại trừ nguy cơ chệch định hướng XHCN.

- Đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước trước đây đã từng là đồng minh chiến lược, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống xâm lược; đồng thời, phát triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Với việc xác định các mối quan hệ như trên, chúng ta sẽ tranh thủ được sự hợp tác quốc tế; vừa khai thác được thế mạnh, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi nước tạo sự chế ước lẫn nhau giữa các nước, hướng tới xây dựng mối quan hệ chiến lược với cả các nước lớn, các nước phát triển mà vẫn giữ được độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường với phương châm: chấp nhận sự tuỳ thuộc lẫn nhau, nhưng không chấp nhận sự lệ thuộc vào bất kỳ nước nào.

Kiên định con đường XHCN trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng những thành tựu tiến bộ của nhân loại đạt được trong thời kỳ CNTB hiện đại để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn là hoàn toàn có cơ sở lý luận và thực tiễn khách quan, khoa học.

NGUYỄN NHÂM

_________

1 - Phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại Lễ bế mạc Hội nghị lần thứ 11, BCHTƯ Đảng [khóa X], Báo Nhân dân, ngày 11-10-2009, tr.4.

2- Vì sao CNTB điều chỉnh không tránh được khủng hoảng chu kỳ? Tạp chí Cộng sản điện tử, Cập nhật ngày 10-1-2008.

3- Xem Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số tháng 5 và 8-2009.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề