Pháp luật xây dựng chủ yếu dựa trên những nền tăng nào

Trong khi đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt, Ðảng ta luôn chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng, xem tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Vậy quốc phòng toàn dân là gì?

Thế trận quốc phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng trên toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi mưu toan và hoạt động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân nếu chiến tranh xảy ra.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân cần nhận thức sâu sắc để đồng tâm, hợp lực.

Quốc phòng toàn dân nghĩa là toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm nhất quán được khẳng định trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng. Quốc phòng toàn dân được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường; tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước.

Quốc phòng toàn dân trong tiếng Anh được hiểu là All-people defense.

2. Biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh:

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện là bản chất và đặc điểm cơ bản của nền quốc phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh mới, trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa kinh tế, xu hướng quốc phòng thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống dân sinh, quân sự thâm nhập vào dân sự và ngược lại ngày càng phát triển.

Sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn nhau giữa quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ngày càng gia tăng. Điều đó làm cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc ngày càng không thể chỉ dựa vào lực lượng vũ trang. Sự nghiệp ấy phải thấm sâu và trở thành ý thức thường trực, hành động cách mạng ở mọi tầng lớp nhân dân và trong tất cả các hoạt động, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Vì vậy, nền quốc phòng toàn dân vững chắc phải là nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của nhân dân, lòng dân được quy tụ thống nhất, nhân dân gắn bó với chế độ, chung sức, chung lòng, quyền lợi và nghĩa vụ hòa quyện vào nhau trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là vấn đề cốt lõi, cấp bách trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân của nước ta hiện nay. Yêu cầu cơ bản đảm bảo tính toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng là phải xây dựng, không ngừng củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; tạo cơ chế để huy động tốt nhất sự đóng góp của các cấp, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Hai là, tập trung xây dựng các tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân.

Trước hết, cần coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần vững chắc. Theo đó, tập trung xây dựng Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng các tiềm lực khác.

Thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng nông thôn; thu hẹp chênh lệch đời sống giữa các tầng lớp nhân dân, vùng, miền. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, mang thành quả của sự nghiệp đổi mới tới mọi tầng lớp nhân dân.

Thực hiện nghiêm chính sách tự do tôn giáo và bình đẳng giữa các dân tộc; phát hiện, giải quyết kịp thời mâu thuẫn nội bộ, không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động trở thành vấn đề phức tạp. Phát huy dân chủ rộng rãi, định hướng dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ quốc phòng; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, “phi chính trị hóa” Quân đội,… củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng để tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở từng địa bàn và trên cả nước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng trong thời bình; đồng thời, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh. Tập trung xây dựng thế trận quân sự của khu vực phòng thủ, trọng tâm là xây dựng các công trình quốc phòng; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Phát huy vai trò của Quân đội trong tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn, nhất là ở các địa bàn biên giới, hải đảo; đồng thời, chú trọng điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các hướng, địa bàn chiến lược, nhằm không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. Thực hiện tốt chức năng thẩm định về mặt quốc phòng các dự án phát triển kinh tế – xã hội, không để ảnh hưởng đến thế trận quốc phòng. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc gắn chặt với thế trận an ninh nhân dân, đảm bảo xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống xảy ra.

Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh thì yêu cầu cốt lõi là phải xây dựng Quân đội thực sự của dân, do dân và vì dân; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có đủ sức mạnh để hoàn thành xuất sắc phận sự trung thành ấy trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng về xây dựng Quân đội là không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng các mặt khác.

Xây dựng Quân đội nhân dân tinh nhuệ, trước hết và quan trọng nhất là tinh nhuệ về chính trị và trình độ tác chiến; từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tập trung đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa, nhất là đối với các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại: Hải quân, Phòng không – Không quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ thuật và Cảnh sát biển; đồng thời, đẩy nhanh lộ trình thực hiện “từng bước hiện đại” ở các lực lượng khác. Tập trung thực hiện tốt ba khâu đột phá, tạo chuyển biến về tổ chức, biên chế của Quân đội theo hướng: Tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, phù hợp với nghệ thuật tác chiến và vũ khí, trang bị, bảo đảm cân đối giữa các khối, các lực lượng; giữa cơ cấu về quân số với khả năng bảo đảm của đất nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, nhất là các địa bàn trọng điểm, biên giới, biển đảo.

Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng gắn với quy hoạch của quốc gia và từng địa phương theo hướng kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; hình thành các khu vực chiến lược vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng – an ninh. Cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội, việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng, bố trí hệ thống các công trình kinh tế, kỹ thuật có quan hệ rất lớn đến thế trận quốc phòng toàn dân. Do vậy, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải được kết hợp ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội

Kết luận: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân thì người dân phải là chủ thể của nền quốc phòng, mọi người dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tham gia. Thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng trong mối liên hệ chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân của Việt Nam tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, phát huy được sức mạnh của các lực lượng, kết hợp được các hình thức hoạt động vũ trang và phi vũ trang, tạo được khả năng cơ động linh hoạt, khả năng độc lập và phối hợp tác chiến. Qua đó củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc trong tình hình mới.

Thực trạng xây dựng pháp luật kinh tế và những vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện

[PGS., TS. Viện Nhà nước và Pháp luật]
Tóm tắt: Bài viết phản ánh mang tính khái quát kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hoạt động xây dựng pháp luật kinh tế ở nước ta hiện nay; nêu ra những vấn đề lớn về lý luận và thực tiễn cần giải quyết trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế.
Abstract: This article briefly reflects the results, shortcomings and their reasons of building up economic law in Vietnam nowadays. On that basis, it points out both theoretical and practical issues to be solved to improve the economic law of Vietnam.  

1. Thực trạng xây dựng pháp luật kinh tế ở nước ta hiện nay


1.1. Kết quả xây dựng pháp luật kinh tế Qua nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật của nước ta thời gian qua, có thể thấy những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực này như sau:

Thứ nhất, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế cơ bản đã được thể chế hóa đầy đủ trong chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện[1].


Thứ hai, tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật, nguyên tắc nhà nước quản lý bằng pháp luật đã được quán triệt trong thực tiễn thể chế hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, cũng như trong hoạt động của bộ máy nhà nước và của công chức, viên chức nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định. Nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động. Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm bằng pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý[2].
Thứ ba, pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế đang được sử dụng như công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước về kinh tế. Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục chủ trương sử dụng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhấn mạnh vai trò của pháp luật, cơ chế, chính sách trước các công cụ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của Đại hội Đảng XI.

Thứ tư, Nhà nước đã hình thành cơ sở pháp lý cần thiết để tổ chức, vận hành, quản lý nền kinh tế thị trường với hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu, về quyền tự do kinh doanh, về cạnh tranh và chống độc quyền, về các loại thị trường, về bình đẳng giữa các doanh nghiệp,… Hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành đã thay thế hoàn toàn cơ sở pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp. Ngoài các quy định do Nhà nước ban hành, một số nguyên tắc cho phép sử dụng quy tắc, chuẩn mực xã hội về/hoặc liên quan đến kinh tế, kể cả các quy tắc hay chuẩn mực phi chính thức đã được thừa nhận[3].


Đại hội Đảng lần thứ IX chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khái quát những nhân tố cấu thành cơ bản của nó[4]. Đại hội Đảng lần thứ XI đã làm rõ thêm nội dung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực…”[5].
Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta xác định rõ hơn yêu cầu xây dựng nền tảng pháp lý cho nền kinh tế thị trường. Theo đó, đến năm 2020, nước ta phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế[6].
Thứ năm, hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế đã được xây dựng tương đối đồng bộ, cơ bản phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng được ở mức độ nhất định yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ sáu, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, hoạt động lập pháp, lập quy tập trung tạo cơ sở pháp lý cho việc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm trật tự quản lý hành chính nhà nước, đấu tranh chống tội phạm. Cùng với quá trình đổi mới chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, pháp luật hướng nhiều hơn vào việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại, dân sự, hội nhập kinh tế quốc tế và giải quyết vấn đề xã hội, phát triển bền vững.
Thứ bảy, phương pháp và cách thức điều chỉnh của pháp luật đã thay đổi theo hướng tạo hành lang và khung pháp lý, phục vụ vai trò định hướng, điều chỉnh, kiểm tra, kiểm soát, giám sát, điều tiết, hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế thị trường. Điều này được thấy rõ trong Điều 33 Hiến pháp hiện hành. Thay cho quy định công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật [Điều 57 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001], Điều 33 Hiến pháp hiện hành đã mở rộng phạm vi và đổi mới cách thức điều chỉnh bằng cách quy định: mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Thứ tám, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế đã được phản ánh và bảo đảm trong pháp luật. Tính chất dân chủ của pháp luật ở nước ta thể hiện ở sự ghi nhận trong pháp luật các lợi ích đa dạng của các nhóm xã hội, thành phần và khu vực kinh tế; giữa trung ương và địa phương; giữa các địa phương và vùng lãnh thổ… Cơ chế xây dựng pháp luật ngày càng dân chủ, công khai, tạo cơ hội và thu hút sự tham gia thảo luận, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương ban hành đã được đăng tải thường xuyên trong Công báo của trung ương và địa phương. Các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã được công bố công khai. Các luật về thủ tục hành chính, thủ tục pháp lý và thủ tục tố tụng đã được ban hành và thường xuyên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo cơ sở cho sự phát triển của hệ thống tài phán ở nước ta.

Thứ chín, pháp luật kinh tế đã tạo ra mặt bằng pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp, đảm bảo sự bình đẳng về pháp lý trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự hiện diện của Luật Đầu tư năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là minh chứng cho điều đó.


Thứ mười, các quyền con người, quyền công dân về kinh tế làm nền tảng cho chế độ kinh tế đã được quy định trong Hiến pháp, đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật và văn bản dưới luật. Có thể kể đến các quyền con người, quyền công dân quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đã được pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ như quyền tư hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền lao động, quyền tự do nghề nghiệp, quyền tham gia công đoàn. Hiến pháp ghi nhận quyền bình đẳng trong các quan hệ kinh tế; bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế…
Thứ mười một, pháp luật đã tác động đến nhận thức xã hội, làm cho đại bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp hiểu rõ hơn giá trị và hạn chế của kinh tế thị trường, định hướng hành vi theo nhu cầu của thị trường. Nhận thức, ý thức tôn trọng, tuân thủ, chấp hành, thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân đã cao hơn. Sự chuyển biến nhận thức này cũng là kết quả của đổi mới nhận thức về nhà nước pháp quyền và vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.

Thứ mười hai, cơ quan lập pháp đã tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thông qua Hiến pháp năm 2013. Cụ thể hoá Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua gần 70 đạo luật[7].


Thứ mười ba, hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, và quan hệ đặc biệt với nhiều nước. Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã hội nhập ở các cấp độ và hình thức khác nhau như tham gia các thỏa thuận thương mại ưu đãi [PTA], tham gia các hiệp định thương mại tự do [FTA], tham gia các liên minh thuế quan [CU], tham gia thị trường chung và tham gia liên minh kinh tế, tiền tệ. Ngoài khuôn khổ WTO, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại, trong đó có Hiệp định Thương mại song phương và Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư với Hoa Kỳ[8]. Từ năm 2001, Việt Nam đã đẩy mạnh đàm phán và ký kết một số hiệp định thương mại tự do với mức độ cam kết và mở cửa thị trường cao hơn như cắt giảm biểu thuế theo tỷ lệ và theo lộ trình một số loại thuế đối với thương mại hàng hóa, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, điều chỉnh một số hoạt động phi thương mại, áp dụng phương pháp tự do hóa thương mại không chỉ theo phương pháp chọn cho mà cả phương pháp chọn bỏ, giảm bớt sự bảo hộ trong nước đối với thương mại dịch vụ, và đầu tư. Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản[9]; ký Hiệp định thương mại tự do với Chile[10]. Riêng trong năm 2015, Việt Nam đã ký kết 3 Hiệp định thương mại tự do quan trọng với các khu vực thị trường lớn là Hàn Quốc[11], Liên minh Kinh tế Á - Âu[12], Liên minh châu Âu[13]. Đặc biệt, ngày 04/02/2016, tại Auckland, New Zealand Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP]. Hiện nay, nước ta đang đàm phán ký kết Hiệp định thương mại tự do với Khối EFTA[14], với Israel[15].
Trong quan hệ với ASEAN, Việt Nam đã tham gia một số hiệp định thương mại nội khối như Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN [ATIGA][16], Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ [AFAS][17], Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN [ACIA][18], Cộng đồng Kinh tế ASEAN [AEC][19]. Ngoài ra, với tư cách là thành viên của ASEAN, một số hiệp định ký giữa ASEAN với một số đối tác cũng có hiệu lực đối với Việt Nam, như Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ[20], Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Úc - New Zealand [AANZFTA][21], Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Hàn Quốc và các hiệp định đi kèm[22], Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản [AJCEP][23], Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc và các hiệp định đi kèm[24]. Hiện nay, nước ta đang cùng một số quốc gia trong ASEAN đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực [RCEP][25], Hiệp định thương mại tự do ASEAN - HongKong.   Thể chế hóa quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 về việc phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.  Việc ký kết nhiều điều ước, hiệp định song phương và đa phương về thương mại, đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã tạo cơ sở pháp lý và tiền đề, điều kiện quan trọng về thể chế để nền kinh tế nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế; để pháp luật trong nước phù hợp và tương thích với pháp luật quốc tế; đồng thời, đảm bảo tính quốc tế của sự phát triển kinh tế thị trường nước ta.

Thứ mười bốn, nhiều quan hệ xã hội mới đã được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn, khái niệm quyền tài sản theo nghĩa bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản đã được quy định trong Hiến pháp[26]. Kinh tế tư nhân đã được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế[27]. Đây sẽ là tiền đề chính trị, pháp lý hình thành các quan hệ pháp luật mới.

Ngoài những thành tựu nói trên, những cải cách pháp luật kinh tế trong thời gian qua tiếp tục được nói đến qua việc cải cách pháp luật về thủ tục kinh doanh, đầu tư theo hướng đơn giản hơn. Phân cấp trong quản lý kinh tế ngày càng rõ ràng và mức độ phân cấp cho chính quyền địa phương ngày càng nhiều hơn.

1.2. Một số hạn chế trong công tác thể chế hóa

Bên cạnh những thành tựu, pháp luật kinh tế cũng còn một số hạn chế trên cả hai phương diện:

Thứ nhất, công tác thể chế hóa và ban hành chính sách, pháp luật cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, cũng như cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành luật, trong đó có pháp luật kinh tế vẫn còn chậm[28]. Việc thường xuyên phải điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa được khắc phục. Việc chuẩn bị một số dự án luật chưa bảo đảm tiến độ và chất lượng trình Quốc hội[29]. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu của đường lối, chính sách.


Thứ hai, chất lượng hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền[30].    Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược”. Biểu hiện:

[i] Hiến pháp và một số đạo luật chưa thể áp dụng nếu không có các văn bản dưới luật cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành. Các văn bản dưới luật vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật kinh tế cần có số lượng lớn các văn bản hướng dẫn thi hành[31]. Điều này chưa thực sự phù hợp với yêu cầu đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và của các đạo luật trong Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, việc văn bản luật cần có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành ít nhiều gây khó khăn cho việc đảm bảo tính thống nhất và tính pháp chế của pháp luật. Thực trạng này là do các văn bản luật thường có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng[32].


[ii] Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng định hướng, kiểm soát, giám sát, điều tiết, khuyến khích và trợ giúp của Nhà nước đối với thị trường và doanh nghiệp chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Điều này có thể thấy qua sự thiếu vắng luật quy hoạch[33]. 
[iii] Nội dung của một số văn bản pháp luật chưa sát với thực tế, chưa theo kịp nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thị trường[34]. Không ít quy định của luật còn nặng về nguyên tắc chung, thiếu tính ổn định, chưa xác định được nguồn lực để triển khai thực hiện[35]; thiếu tính khả thi trong pháp luật trọng tài thương mại[36].
 Thứ ba, kết quả cải cách hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp chưa đồng bộ và theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường[37].
Thứ tư, sự hiểu biết và ý thức pháp luật của các doanh nghiệp, nhất là pháp luật về cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, hội nhập quốc tế còn thấp. Nguyên nhân là do hiệu quả tuyên truyền pháp luật chưa cao và doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng việc tìm hiểu pháp luật.
Thứ năm, việc ưu tiên nguồn lực cho hoạt động xây dựng chính sách, lập pháp trong lĩnh vực kinh tế là cần thiết, nhưng điều này ít nhiều ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính cân đối và đồng bộ của hệ thống pháp luật trong điều chỉnh các lĩnh vực khác[38].
 Thứ sáu, chi phí thực thi pháp luật còn cao, chẳng hạn chi phí kinh doanh[39], tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong các tranh chấp kinh tế.
Thứ bảy, công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn yếu[40].   
Cơ chế thực thi và phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu quả[41].
Hiệu quả kiểm tra, giám sát, hiệu quả “hậu kiểm”, xử lý vi phạm còn hạn chế[42]. Quy định về thủ tục hành chính trong kinh doanh đã cải cách, nhưng trong một số lĩnh vực chuyên ngành vẫn còn phức tạp, chưa đồng bộ với thủ tục do pháp luật doanh nghiệp và pháp luật đầu tư quy định.

Thứ tám, năng lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính sách còn hạn chế[43].


1.3. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác thể chế hóa Những hạn chế trên là do các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng đối với một số vấn đề chưa kịp thời được cụ thể hóa. Điều đó đã ảnh hưởng đến hoạt động thể chế hóa bằng pháp luật.


Thứ hai, mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và phát triển theo cách thức “vừa thiết kế, vừa thi công”, vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm, khái quát thành lý luận, sau đó chắt lọc xây dựng thành đường lối, chính sách, thể chế hóa và thực hiện trên thực tế, sau khi kiểm chứng lại chỉnh sửa, bổ sung đường lối và pháp luật. Các quan hệ kinh tế - xã hội mà pháp luật điều chỉnh đang phát triển, tính ổn định chưa cao[44].
Thứ ba, công tác dự báo, nghiên cứu lý luận phục vụ việc xây dựng và hoạch định chính sách và pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho pháp luật thiếu tính thực tiễn[45].
Thứ tư, giữa nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vận dụng nhận thức đó để đưa vào chính sách và pháp luật thường tồn tại khoảng cách nhất định[46]. Ở đây, là sự thận trọng trong ứng dụng các yếu tố mang tính phổ biến của các mô hình kinh tế thị trường khác vào mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn quá độ. 
Thứ năm, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế. Kinh phí để xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật chưa thực sự tương xứng với nhiệm vụ. 
Thứ sáu, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực thi thể chế kinh tế còn bất cập[47].
Thứ bảy, chưa phát huy đầy đủ được vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng văn bản, nhất là cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia soạn thảo trong việc chuẩn bị, trình, tiếp thu ý kiến, hoàn thiện dự thảo trình thông qua; sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình chuẩn bị văn bản còn hạn chế[48].
2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế Bên cạnh những kết quả đã đạt được, yêu cầu tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đổi mới, phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế đã đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế.

2.1. Về phương diện lý luận


Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa quan điểm về định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường vào thể chế, chính sách pháp luật[49]. Cùng với đó, giải quyết hài hòa giữa vai trò điều tiết của Nhà nước trong đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa với sự vận động theo quy luật kinh tế khách quan của thị trường.
Về định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta, Đại hội Đảng lần thứ XII xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”[50].
Thứ hai, giải quyết mối quan hệ giữa tôn trọng những giá trị chung mang tính phổ biến với những yếu tố đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hiến định ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục cụ thể hóa[51].
Thứ tư, yêu cầu phân định vai trò chính trị, hành chính của Nhà nước [tổ chức quyền lực công] với vai trò kinh tế của Nhà nước [chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước và là đại diện của sở hữu toàn dân].
2.2. Về phương diện thực tiễn
2.2.1. Yếu tố trong nước
Thứ nhất, yêu cầu tiếp tục cải cách và đổi mới thể chế để tạo động lực phát triển. Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế[52].
Tăng trưởng ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu dựa vào các lợi thế đầu vào của sản xuất như tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu thô, nguồn nhân lực giá rẻ và sự cởi trói cơ chế cũ, giải phóng năng lực con người. Những yếu tố có khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn của sản xuất như tri thức, khoa học và công nghệ, quản lý tiên tiến… mới được khai thác ở mức độ hạn chế. Khi động lực được tạo ra từ những cuộc cải cách vừa qua không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển thì cần tạo ra những động lực mới, trong đó có đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân[53].
Thứ hai, yêu cầu hiện thực hóa các quan điểm, chính sách đổi mới.
Đổi mới ở nước ta đã tiến hành được gần 30 năm. Nhiều quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng ta đã được hiện thực hóa và đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm tiếp tục cần cụ thể hóa và hiện thực hóa trên thực tế, chẳng hạn quan điểm của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam: “thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”, “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”[54]. Hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại là thách thức rất lớn đối với Đảng và Nhà nước ta, trước hết là nhu cầu vốn để đầu tư phát triển. 

Thứ ba, yêu cầu về nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển.

 Nhà nước pháp quyền là một thể chế để thực hành xã hội dân chủ, đồng thời là hình thức chính trị - pháp lý hợp lý để quản lý một xã hội dân chủ, văn minh và phát triển. Mọi sự đổi mới và phát triển đất nước đều không thể thoát ly được vai trò của Nhà nước. Để đảm bảo đổi mới thành công, cần phải có một Nhà nước mạnh, được tổ chức hợp lý, thực hành dân chủ, có khả năng huy động và quản lý mọi nguồn lực. Hiện nay, nước ta đang đứng trước những thách thức rất lớn của yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đưa nước ta đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp; khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường; phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội. Vai trò của Nhà nước có xu hướng ngày càng tăng trong điều hành chính sách vĩ mô và phối hợp giải quyết các vấn đề quốc tế.

2.2.2. Yếu tố quốc tế


Thứ nhất, nhu cầu hạn chế nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tuy Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng GDP trên đầu người khá cao và đã ở vào nhóm cuối của những nước thu nhập trung bình thấp. Nhưng khoảng cách từ nước có thu nhập trung bình thấp lên nhóm nước có thu nhập trung bình cao, chưa nói đến nhóm có thu nhập cao, còn khá xa. Trong khi đó, tăng trưởng hiện nay của nước ta chưa bền vững và chưa có dấu hiệu tăng đột biến. Mặt khác, hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu, thị trường chứng khoán hoạt động chưa tốt, hiệu quả đầu tư so với vốn bỏ ra thấp, năng suất tăng chậm, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, chi phí sản xuất tăng, tiền đồng Việt Nam có xu hướng mất giá ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ hai, cải cách thể chế pháp lý đáp ứng yêu cầu về nâng cao năng lực cạnh tranh và quản trị quốc gia, cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.


Thứ ba, tạo nền tảng pháp lý để đáp ứng cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và ứng phó với những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Tham gia ngày càng sâu, rộng vào đời sống kinh tế, chính trị, an ninh, bảo vệ môi trường thế giới làm cho nền kinh tế nước ta giao thoa rộng hơn, nhưng cũng bị tác động, ảnh hưởng nhiều hơn của các nhân tố bên ngoài. Ứng xử của Nhà nước đối với thị trường không chỉ tạo ra hiệu ứng trong nội bộ quốc gia mà còn được chú ý bởi dư luận quốc tế. Theo lộ trình khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, sau năm 2018, nền kinh tế Việt Nam được công nhận và vận hành theo thể chế kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Hiện nay, có những vấn đề mang tính toàn cầu, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, một quốc gia không thể tự mình giải quyết được mà cần có sự hợp tác, phối hợp của nhiều quốc gia; có nhiều vấn đề phát sinh đối với doanh nghiệp, nhưng không chỉ liên quan đến doanh nghiệp mà liên quan đến cả quốc gia, doanh nghiệp không thể tự mình giải quyết được, cần có sự hỗ trợ và tham gia cùng giải quyết của nhà nước. Việc ký kết Hiệp định thương mại tự do [FTA], Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP] mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với nhà nước trong bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, chủ quyền quốc gia và nội luật hoá các cam kết đó.

Chú thích


[1] Theo đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 97.
[2] Xem thêm: Hà Hùng Cường, Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18 [139 + 140], tháng 1/2009.
[3] Theo khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005: Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 86.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 204-205.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016.
[7] Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11 sáng 22/3/2016. Thông tin xem trên trang điện tử của Ban Nội chính trung ương ngày 23/3/2016, //noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/tin-trung-uong/201603/toan - van - bao - cao - cong-tac-nhiem-ky-khoa-xiii-cua-quoc-hoi-300287/.
[8] Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ [BTA] được ký kết vào ngày 13/7/2000, có hiệu lực từ ngày 11/12/2001. Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ [TIFA] được ký kết giữa hai bên vào năm 2007.
[9] Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam-Nhật Bản [VJEPA] ký năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/10/2009 là một Hiệp định kinh tế toàn diện cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Nội dung văn kiện theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/cac hiepdinhkhac/hiep-dinh-doi-tac-kinh-te-giua-viet-nam-va-nhat-ban-vjepa.
[10] Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Chile [VCFTA] ký tháng 11/2011, có hiệu lực từ tháng 01/2014. Nội dung Hiệp định bản tiếng Việt theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/sites/default/files/vcfta_vie.pdf.
[11] Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Hàn Quốc [VKFTA], ký tháng 5/2015, có hiệu lực từ ngày 20/12/2015. Nội dung văn kiện tóm tắt theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/tom-luoc-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-viet-nam-han-quoc-vkfta.
[12] Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu được ký vào cuối tháng 5/2015. Nội dung văn kiện theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/ cachiepdinhkhac/van-ban-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-viet-nam-lien-minh-kinh-te-au.
[13] Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu [EVFTA] được kết thúc đàm phán vào đầu tháng 12/2015. Nội dung văn kiện gần chính thức theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/vn-eu-fta/toan-van-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-giua-viet-nam-va-lien-minh-chau-au-evfta.
[14] Gồm các nước Thụy Sĩ, NaUy, Ai-xơ-len, Lichteinsten.
[15] Phiên đàm phán thứ nhất Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Israel đã được tiến hành tại Hà Nội ngày 28/3/2016. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto. vn/tin-tuc/vong-dam-phan-thu-nhat-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-viet-nam-israel-tien-de-phat-trien-giai-do.
[16] Hiệp định ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Xem Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto. vn/cachiepdinhkhac/tom-luoc-cong-dong-kinh-te-asean-aec.
[17] Hiệp định khung về Dịch vụ của ASEAN [AFAS] được các nước thành viên ký năm 1995 và Nghị định thư sửa đổi AFAS được ký năm 2003 điều chỉnh hoạt động cung cấp dịch vụ giữa các nước ASEAN. Nội dung của AFAS tương tự Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, nguồn tài liệu đã dẫn ở trên.
[18] Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN [ACIA] được ký kết năm 2009, có hiệu lực từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư ASEAN [IGA] 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN [AIA] 1998]. ACIA bao gồm 4 nội dung chính: Tự do hóa đầu tư, Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa đầu tư và Xúc tiến đầu tư. Phạm vi điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, nguồn tài liệu đã dẫn ở trên.
[19] Cộng đồng kinh tế ASEAN là khối kinh tế khu vực của 10 quốc gia thành viên ASEAN chính thức được thành lập vào ngày 31/12/ 2015.
[20] Hiệp định được ký kết ngày 8/10/2003 thiết lập Khu vực Mậu dịch tự do [AIFTA] vào năm 2011 với các nước ASEAN5 [Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan] và Ấn Độ, năm 2016 với Lào, Campuchia, Myanmar, Philippines và Việt Nam. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/node/4350.
[21] Hiệp định đã được ký kết vào tháng 2/2009, có hiệu lực từ 01/01/2010. Hiệp định là thỏa thuận liên khu vực đầu tiên của ASEAN. Nội dung chi tiết của Hiệp định theo Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/node/2571.
[22] Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Hàn Quốc đã được ký ngày 13/12/2005, có hiệu lực từ ngày 01/09/2009. Trên cơ sở Hiệp định khung đó, Hàn Quốc và một số nước ASEAN đã ký Hiệp định về Cơ chế giải quyết tranh chấp vào tháng 12/2005; Hiệp định về Thương mại hàng hóa được ký bởi 9 quốc gia thành viên ASEAN và Hàn Quốc vào tháng 8/2006; Hiệp định về Thương mại dịch vụ giữa ASEAN và Hàn Quốc được ký bởi 9 quốc gia thành viên ASEAN và Hàn Quốc vào tháng 11/2007. Hiệp định về Đầu tư được ký năm 2009. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/node/316.
[23] Xem chú thích số 9.
[24] Trên cơ sở Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế toàn diện ký tháng 11/2002, ASEAN và Trung Quốc đã hình thành Hiệp định về thương mại hàng hóa và Thỏa thuận cơ chế giải quyết tranh chấp ký tháng 11/2004, có hiệu lực từ tháng 7/2005; Hiệp định thương mại dịch vụ được ký vào tháng 1/2007, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007; Hiệp định đầu tư ASEAN - Trung Quốc được ký vào tháng 8/2009. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www.trungtamwto.vn/node/1836.
[25] Hiệp định RCEP được khởi động vào tháng 11/2012 với mục đích thúc đẩy hợp tác kinh tế sâu hơn giữa 10 quốc gia thành viên ASEAN và Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc, tập trung vào thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Thông tin của Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc VCCI, //www. trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/dam-phan-hiep-dinh-rcep-co-hoi-phia-truoc.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tài liệu đã dẫn, tr. 20.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tài liệu đã dẫn, tr. 20.
[28] Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 22/3/2014 của Chính phủ, phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 3/2014. Dẫn chứng, xem Hoàng Văn Tú, Chính sách xây dựng pháp luật, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn cấp bách về chính sách pháp luật”, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tháng 12/2013.
[29] Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11 sáng ngày 22/3/2016, tài liệu đã dẫn ở trên.
[30] Xem thêm: Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” [Dự án 00058492], Bản tin “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam”, số 3, tháng 6/2011, tr. 6-7; Hoàng Văn Tú, Chính sách xây dựng pháp luật, tài liệu đã dẫn ở trên.
[31] Hà Hùng Cường, “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2+3/2009, tr. 17-25, tài liệu đã dẫn ở trên, Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên 126 văn bản.
[32] Hoàng Văn Tú, Chính sách xây dựng pháp luật, tài liệu đã dẫn ở trên.
[33] Dự thảo được Quốc hội đưa ra thảo luận ngày 21/11/2016.
[34] Đinh Văn Ân/Lê Xuân Bá, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 2006, tr. 98-99.
[35] Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11, sáng ngày 22/3/2016, tài liệu đã dẫn ở trên.
[36] Nguyễn Văn Cương, Một số giải pháp tăng cường tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật, ngày 18/02/2014 trên //moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/ nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemId=6009#_ftn3.
[37] Hoàng Văn Tú, Chính sách xây dựng pháp luật, tài liệu đã dẫn ở trên.
[38] Dẫn chứng cụ thể, xem Hoàng Văn Tú, Chính sách xây dựng pháp luật, tài liệu đã dẫn ở trên.
[39] Edmund Malesky [Trưởng nhóm]/Đậu Anh Tuấn, Phạm Ngọc Thạch… Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh [PCI] của Việt Nam năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016.
[40] Trương Tấn Sang, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới, bài công bố trên Báo điển tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/05/2011, //dangcongsan.vn/ cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=28340666&cn_id=460528; Về hiệu lực thực thi pháp luật, xem Đinh Văn Ân/Lê Xuân Bá, Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2006, tr. 97.
[41]Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam.
[42]Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam.
[43]Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam.
[44] Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11, sáng ngày 22/3/2016, tài liệu đã dẫn ở trên.
[45] So sánh Đinh Dũng Sỹ, Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật, chính sách pháp luật với chính sách công, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn cấp bách về chính sách pháp luật”, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tháng 12/2013.
[46] Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam: “nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, nhất là về kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể; về cơ chế phân bổ nguồn lực, sở hữu đất đai, cơ chế giá một số hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu”.
[47] Trích từ Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam. 
[48] Báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng trình bày tại kỳ họp thứ 11, sáng ngày 22/3/2016, tài liệu đã dẫn ở trên.
[49] Trần Kim Cúc, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Từ lý luận đến thực tiễn, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16/1/2014, địa chỉ: //www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay -dung-nha-nuoc-phap-quyen/2014/25460/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-Viet.aspx.
[50] Trích từ Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam. 
[51] Trần Kim Cúc, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Từ lý luận đến thực tiễn, tài liệu đã dẫn ở trên.
[52] Theo Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam. 
[53] Nguyễn Tấn Dũng, “Hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền tảng phát triển nhanh và bền vững”, bài viết công bố trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ ngày 01/01/2014, truy cập từ địa chỉ //baodientu.chinhphu.vn/Cac-bai-phat-bieu-cua-Thu-tuong/Thong-diep-nam-moi-cua-Thu-tuong-Nguyen-Tan-Dung/189949.vgp.
[54] Trích từ Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam.  
Nguồn: Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2016, số 12, tr.31-41.
 

Video liên quan

Chủ Đề