Những chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta

Trong bối cảnh mới hiện nay, việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo sẽ phải đối diện thêm nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt khi đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp càng ảnh hưởng tiêu cực đến nhóm đối tượng yếu thế, đã nghèo đói sẽ càng nghèo đói hơn.

Tuy vậy, với nguồn ngân sách nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực của các nước, các tổ chức quốc tế, việc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam sẽ vượt khó để đạt được những mục tiêu  đặt ra trong giai đoạn tới.

GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRƯỚC NHIỀU THÁCH THỨC

Trong nhiều năm qua, công tác xóa đói giảm nghèo cho người dân luôn là một chủ trương, chính sách lớn, quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Những chính sách này được đặc biệt quan tâm và kiên trì, bền bỉ thực hiện qua từng giai đoạn khác nhau.

Hiện Việt Nam đã trải qua sáu lần điều chỉnh tiêu chí về nghèo cho phù hợp tình hình thực tế.Từ các tiêu chí về lương thực nhằm bảo đảm có ăn, có mặc, đến áp dụng giá cả, thu nhập, mức sống tối thiểu...và bây giờ chúng ta đang áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Về phương thức giảm nghèo, Việt Nam chuyển  đi từ chỗ Nhà nước phải bảo đảm ngân sách hoàn toàn sang phương thức Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt; người dân, hộ nghèo là chủ thể...

Đánh giá về kết quả xóa đói giảm nghèo trong những năm qua, ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đã nhấn mạnh tại lễ ký kết thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực giảm nghèo giữa Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [LĐTB&XH] và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc [UNDP], đồng thời giới thiệu dự án UNDP-MOLISA-DFAT: “Xây dụng chương trình và tư vấn chính sách về giảm nghèo đa chiều và bền vững, giai đoạn 2021-2023”.

Trong những năm qua, công tác giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ, toàn diện. Hàng triệu hộ gia đình đã thoát nghèo, nhiều hộ có cuộc sống trung bình, khá giả; nhiều địa bàn nghèo thoát khỏi tình trạng khó khăn, một số địa bàn đạt chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh.

Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, đến năm 2020 còn 2,75% và năm 2021 là 2,23%. Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xoá đói, giảm nghèo và được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới.

Mặt khác, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng  kết quả giảm nghèo của Việt Nam chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao; chênh lệch mức sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, giải quyết việc làm giữa các địa phương, vùng, miền, nhóm dân cư chưa được thu hẹp nhiều.

Một số nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao, đời sống còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, bãi ngang ven biển và hải đảo. Một số cơ chế, chính sách, chương trình giảm nghèo chưa thực sự hiệu quả.

Một bộ phận người nghèo vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, chưa chủ động tự vươn lên thoát nghèo.  Hơn nữa, hai năm đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến công việc này, khiến cho công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn tới càng khó khăn hơn.  Theo ông Tô Đức - Chánh văn phòng Quốc gia giảm nghèo, chưa bao giờ công tác giảm nghèo quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như thời điểm này. Thiên tai, dịch bệnh có thể làm gia tăng đáng kể số hộ nghèo, nhất là nghèo đô thị.

THAY ĐỔI CÁCH HỖ TRỢ VÀ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH

Trong bối cảnh đó, việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 có nhiều điểm cốt lõi rất mới so với giai đoạn 2016-2020. Đó là phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1,0 - 1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3,0%/năm; 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn.

Theo ông Tô Đức - Chánh văn phòng Quốc gia giảm nghèo, chưa bao giờ công tác giảm nghèo quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như thời điểm này. Thiên tai, dịch bệnh có thể làm gia tăng đáng kể số hộ nghèo, nhất là nghèo đô thị.

Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4 - 5%/năm là rất khó khăn. Điều này, cần phải có những đổi mới, sáng tạo hơn trong cách thực hiện. Theo đó, định hướng chương trình thực hiện chiến lược cần tập trung đầu tư vào con người, trực tiếp là đầu tư, nâng cao năng lực người nghèo. Xác định rõ nguyên nhân nghèo để giải quyết căn cơ, triệt để những vấn đề của người nghèo, vùng lõi nghèo. Từ cách nhìn này cho thấy phương thức hỗ trợ cho người nghèo cần phải thay đổi cho phù hợp.

Nếu trước đây việc hỗ trợ cho người nghèo là riêng lẻ theo từng hộ gia đình, thì nay sẽ tập trung vào hỗ trợ theo các mô hình tổ chức sản xuất phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, nhu cầu của hộ nghèo thông qua việc xây dựng; phát triển và nhân rộng các mô hình; dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp…

Góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, bảo vệ môi trường, tăng trưởng kinh tế và mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Điều này đã được chứng minh bằng thực tế qua một số mô hình xóa đói giảm nghèo dưới sự giúp đỡ của các đối tác quốc tế trong việc nghiên cứu, khuyến nghị xây dựng chính sách giảm nghèo; triển khai các mô hình, sáng kiến giảm nghèo.

Ông Tô Đức, Chánh văn phòng Quốc gia giảm nghèo cho biết các cơ chế, chính sách giảm nghèo đa chiều cùng những giải pháp sáng tạo của Việt Nam trong thời gian qua đã được đúc kết từ các Chương trình trước cũng như thử nghiệm thành công bởi các đối tác phát triển trong đó có UNDP, TREAT/DEAT.

Hiện các tổ chức này đang hỗ trợ khoảng 4 tỷ đồng để nghiên cứu đề xuất hướng dẫn mô hình, dự án giảm nghèo nhằm đa dạng hóa sinh kế, tạo việc làm, tạo thu nhập tốt cho người nghèo theo hướng thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, gắn sản xuất với thị trường, huy động sự tham gia của các doanh nghiệp, cơ quan cung cấp dịch vụ kỹ thuật trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025.

Có thể kể đến một số mô hình xóa đói giảm nghèo qua nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế đã cho kết quả rất tốt như “Mô hình sinh kế dựa vào chuỗi giá trị” của tổ chức Oxfam, mô hình tiết kiệm tín dụng của tổ chức Cứu trợ trẻ em Nhật Bản [SCJ] và mô hình giảm nghèo dựa vào phát triển kinh doanh nhóm du lịch cộng đồng của tổ chức Lao động quốc tế [ILO]…

Hoặc mô hình “Nuôi bò sinh sản” giai đoạn 2021-2024 của tỉnh Bến Tre cũng đã chứng minh cho sự thay đổi cách hỗ trợ này. Hộ gia đình tự chọn mua giống nhưng xã sẽ chi trả tiền cho người bán bằng một số tiền nhất định sát với giá thị trường lúc đó chứ không giao tiền cho hộ gia đình như trước.

Sau ba năm các hộ sẽ trả lại vốn vì bò sinh sản bắt đầu có sinh lãi. Trung bình một con bò cái sẽ sinh sản một lứa/năm, có khi ba năm/lứa; thêm con giống, gia đình có thêm động lực phát triển đàn bò tăng thu nhập, kinh tế gia đình sẽ thay đổi đáng kể.

Việc thay đổi cách thức hỗ trợ cho người nghèo; nhân rộng các mô hình, sáng kiến xóa đói giảm nghèo tốt; ứng dụng các kết quả nghiên cứu của các tổ chức quốc tế trong việc xóa đói giảm nghèo phù hợp với từng địa phương là  cách chúng ta thực hiện tốt các mục tiêu mới của mình trong giai đoạn 2021-2025. 

[HNMO] - Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm trong hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành vượt mức mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm…Từ năm 1992 đến năm 1998 với rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm từ 2 đến 3%. Đến hết năm 2010 tỷ lệ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức mục tiêu đề ra là 10%. Hội nghị Trung ương lần thứ 5 [khóa VII] đã đề ra chủ trương xóa đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác. Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo [Chương trình 133] cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo”. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách...và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ổn định xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”. Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt. Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đọan 2011 – 2015 sẽ tiếp tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các chương trình phát triển kinh tế xã hôi khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà còn huy động được sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước, Ngân hàng thương mại…và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…[Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [2011], Hội nghị triển khai nhiệm vụ công tác năm 2011, NXB Lao động – Xã hội, tr.59

Với những giải pháp đồng bộ như vậy, sẽ đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2015./.

Video liên quan

Chủ Đề