Nhóm công chúng là gì

Công chúng là mọi nhóm người có quan tâm hoặc ảnh hưởng thực tế hay tiềm tàng đến khả năng của doanh nghiệp trong việc thành đạt những mục tiêu của mình.

Công chúng có thể tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Vì thế các doanh nghiệp cần có những biện pháp cụ thể để giải quyết các quan hệ với công chúng chủ yếu.

Bộ phận quan hệ với công chúng của doanh nghiệp có trách nhiệm lập kế hoạch, theo dõi thái độ của công chúng thuộc các tổ chức, dàn xếp và xử lý dư luận, phân phối thông tin và giao tiếp để tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp.

Quan hệ công chúng là làm gì?

Có thể hiểu quan hệ công chúng là những nỗ lực một cách có kế hoạch, tổ chức của một cá nhân hoặc một tập thể nhằm thiết lập và duy trì, phát triển những mối quan hệ có lợi với đông đảo công chúng của nó. Có năm hoạt động cơ bản mà bộ phận quan hệ với công chúng phải thực hiện:

Các hoạt động quan hệ công chúng

Quan hệ với báo chí: mà mục đích là đăng tải các thông tin có giá trị trên các phương tiện truyền thông đại chúng để thu hút sự chú ý đến con người, sản phẩm, dịch vụ hay tổ chức.

Tuyên truyền sản phẩm: Tiến hành những nỗ lực khác nhau nhằm công bố về những sản phẩm cụ thể.

Truyền thông của doanh nghiệp: bao gồm truyền thông đối nội và đối ngoại nhằm làm cho mọi người hiểu biết sâu hơn về tổ chức đó.

Vận động hành lang: Làm việc với các nhà lập pháp và các quan chức chính phủ để cổ động việc ủng hộ hay hủy bỏ một đạo luật hay một qui định nào đó.

Tham mưu: đề xuất với ban lãnh đạo những kiến nghị về các vấn đề có liên quan đến công chúng và về vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp.

Quan hệ công chúng trong marketing

Trên thực tế thì những người làm marketing thường quan tâm đến kết quả cuối cùng, trong khi những người làm công tác quan hệ công chúng lại xem nhiệm vụ của mình là chuẩn bị và phân phối thông tin. Hiện nay nhiều doanh nghiệp đang hình thành bộ phận marketing quan hệ công chúng [MPR].

MPR không chỉ là tuyên truyền, tức là có nhiệm vụ đảm bảo chỗ đăng tải [chứ không phải chỗ phải trả tiền] trên các phương tiện in ấn, truyền thanh và truyền hình để cổ động hay giới thiệu một sản phẩm, một địa điểm hay một con người, mà còn có các nhiệm vụ :

– Hỗ trợ việc giới thiệu sản phẩm mới

– Hỗ trợ việc xác định lại vị trí của một sản phẩm sung mãn;

– Tạo nên sự quan tâm đến một loại sản phẩm;

– Ảnh hưởng đến những nhóm mục tiêu nhất định;

– Tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp bằng cách tạo nên những ý nghĩ tốt đẹp về các sản phẩm của nó.

MPR đặc biệt có hiệu quả trong việc tạo sự biết đến và hiểu biết nhãn hiệu đối với những sản phẩm mới lẫn những sản phẩm hiện có.

Đặc điểm hoạt động quan hệ công chúng

Đặc điểm hoạt động quan hệ công chúng

+ Chi phí thấp: Chi phí quan hệ công chúng được coi là ít tốn kém so với các chương trình truyền thông khác. Bởi nếu cùng một bài PR đăng trên khuôn khổ báo nhất định có thể được rất nhiều báo khác đưa tin lại mà đôi khi không hề tốn kém trong khi đó những chương trình truyền thông khác để có khoảng không gian và thời gian tương tự phải chi rất nhiều tiền để mua khoảng trống đăng bài.

Bên cạnh đó, nếu tính chi phí bình quân theo tháng thì có thể nói một chương trình PR thường có tác dụng lâu dài hơn các chương trình truyền thông khác, vì vậy chi phí trung bình lại còn giảm hơn nữa.

+ Đối tượng cụ thể: Bản chất của PR là tạo dựng quan hệ, vì vậy thông thường phải hướng đến một nhóm nhỏ và điều này trái ngược với quảng cáo và các công cụ truyền thông khác thường nhắm đến số lượng đông và thường chủ yếu tập chung vào nhóm khách hàng.

+ Đáng tin cậy: Đối tượng nhận tin thường dễ dàng nhận biết được chủ thể truyền tin và chủ thể truyền tin thường bỏ tiền để tự nói về tổ chức, về doanh nghiệp, về sản phẩm của mình, thì PR thường theo hình thức hữu xạ tự nhiên hương, tức là tự mình làm những điều mang lại lợi ích cho các nhóm đối tượng để bên thứ ba sẽ nói về tổ chức, về doan nghiệp, về sản phẩm của họ. Chính vì vậy, thông điệp của chương trình PR thường mang tính tin cậy cao và dễ dàng được các nhóm công chính tiếp cận mà không gặp những rào cản về tâm lý.

+ Khó điều khiển: Không phải doanh nghiệp tự bỏ tiền ra để nói về mình mà từ người thứ ba nói về doanh nghiệp làm cho hoạt động PR trở nên khó điều khiển. Doanh nghiệp không biết liệu hoạt động của mình có được báo chí đưa tin hay không? Thông điệp có được truyền tải như tổ chức, doanh nghiệp mong muốn không hay bị truyền tải theo hướng ngược lại? thông điêph có được truyền tải đúng thời điểm cần thiết không? Đủ tần xuất xuất hiện không?

Điều này làm cho doanh nghiệp, tổ chức khó mà điểu khiển hoàn toàn theo ý mình, khác hẳn với quảng cáo và các phương thức truyền thông khác hoàn toàn có thể chủ động về nội dung, về thời điểm, về tần suất xuất hiện hay lặp lại.

+ Cạnh tranh gay gắt: Hoạt động quan hệ công chúng không những đối mặt với sự cạnh tranh từ các chương trình quan hệ công chúng của đối thủ cạnh tranh mà nó còn bị cạnh tranh bởi các chương trình của các tổ chức, các chương trình của bản thân các phương tiện truyền thông.

Vai trò của quan hệ công chúng

MPR: Hỗ trợ hoạt động marketing, tập trung chuyên sâu vào sản phẩm và khách hàng nhằm đạt được sự xác nhận của bên thứ ba, xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Corporate PR: Hỗ trợ xây dựng thương hiệu và hỗ trợ quảng cáo hình ảnh doanh nghiệp, tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp.

Finacial PR: Marketing cho cổ phiếu của công ty và thu hút các nhà đầu tư đến công ty.

Human resource PR: Tạo dựng văn hóa doanh nghiệp, thúc đẩy quan hệ bên trong doanh nghiệp và thu hút nguồn nhân lực từ bên ngoài.

Với những vai trò này thì hoạt động PR cần đạt được:

PR quan hệ công chúng phải thể hiện được nhu cầu và mong muốn của các nhóm công chúng khác nhau của một tổ chức, sau đó quản lý và có những hoạt động phản ứng tác động lại công chúng từ đó mở ra đối ngoại giữa tổ chức với các nhóm công chúng hữu quan có ảnh hưởng tới tổ chức.

PR quan hệ công chúng

Các cuộc đối thoại có thể khuyến khích sự hòa hợp, hiểu biết giữa tổ chức và các nhóm công chúng của mình

Quan hệ công chúng luôn hướng tới xã hội và hoạt động vì lợi ích xã hội

Quan hệ công chúng tạo cơ hội để tổ chức hợp tác với các nhóm công chúng và loại trừ những tiêu cực

Cung cấp thông tin hữu ích cho các nhóm công chúng trong các lĩnh vực đời sống của họ.

Vai trò của người làm PR là đưa ra các vấn đề và những nguy cơ nhắc cho nhà quản lý nhớ về những trách nhiệm đạo đức của họ, giúp nhà quản lý định hình những mục tiêu và ra quyết định đúng đắn

Lường trước những vấn đề và giải quyết khi chúng còn là vấn đề nhỏ.

Chức năng truyền thông quan hệ công chúng

Định hướng dư luận: hướng suy nghĩ và hành động của các nhóm công chúng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của tổ chức

Đáp ứng dư luận: đưa ra các phản ứng đối với các diễn biến và các vấn đề hoặc những đề xướng của công chúng.

Xây dựng và phát triển các mối quan hệ cùng có lợi giữa tổ chức và các nhóm công chúng của họ.

Thông tin liên hệ:

Email:

Web: thuengoaimarketing.vn

Hotline: 0971.2266.25

Tag: thuê đội ngũ marketing, tư vấn giải pháp marketing, tư vấn thương hiệu, dịch vụ marketing, dịch vụ marketing

Trong quan hệ công chúng và khoa học truyền thông, công chúng là các nhóm người riêng lẻ hoặc là tổng thể của các nhóm như vậy.[1] [2] Đây là một khái niệm khác với khái niệm xã hội học của Öffentlichkeit hoặc lĩnh vực công cộng.[1] Khái niệm về công chúng cũng đã được định nghĩa trong khoa học chính trị, tâm lý học, tiếp thị và quảng cáo. Trong quan hệ công chúng và khoa học truyền thông, nó là một trong những khái niệm mơ hồ hơn trong lĩnh vực này.[3] Mặc dù nó có các định nghĩa trong lý thuyết về lĩnh vực đã được hình thành từ đầu thế kỷ 20 trở đi, nhưng nó đã phải chịu đựng trong những năm gần đây vì bị làm mờ, do kết quả của ý tưởng về một cộng đồng với các khái niệm về đối tượng, phân khúc thị trường, cộng đồng, khu vực bầu cử và các bên liên quan.[4]

Cái tên public với nghĩa "công chúng" có nguồn gốc với Latinh publicus [còn poplicus], từ Populus, để từ tiếng Anh ' quần chúng ', và nói chung là chỉ đến một số dân chúng quy mô lớn ["nhân dân"] với một số vấn đề quan tâm chung. Vì vậy, trong khoa học chính trị và lịch sử, công chúng là một quần thể các cá nhân gắn liền với các vấn đề công dân, hoặc các vấn đề của văn phòng hoặc nhà nước. Trong tâm lý xã hội, tiếp thị và quan hệ công chúng, công chúng có một định nghĩa tình huống hơn.[3] John Dewey định nghĩa trong [Dewey 1927] là một nhóm người, khi đối mặt với một vấn đề tương tự, nhận ra nó và tự tổ chức để giải quyết nó. Do đó, định nghĩa của Dewey về công chúng là tình huống: mọi người tổ chức về một tình huống. Được xây dựng dựa trên định nghĩa tình huống này của công chúng là lý thuyết tình huống về công chúng của James E. Grunig [[Grunig 1983]], nói về những người không phải công chúng [không có vấn đề gì], công chúng tiềm ẩn [những người có vấn đề], nhận ra công chúng [những người nhận ra rằng họ có một vấn đề] và công chúng tích cực [những người làm gì đó về vấn đề của họ].[2] [5]

Trong quan hệ công chúng và lý thuyết truyền thông, công chúng khác biệt với các bên liên quan hoặc thị trường. Công chúng là tập hợp con của tập hợp các bên liên quan cho một tổ chức, bao gồm những người liên quan đến một vấn đề cụ thể. Trong khi thị trường có mối quan hệ trao đổi với một tổ chức và thường là một thực thể thụ động được tạo ra bởi tổ chức, thì công chúng không nhất thiết phải có mối quan hệ trao đổi, và cả tự tạo và tự tổ chức.[2] Công chúng được nhắm mục tiêu bởi các nỗ lực quan hệ công chúng. Trong đó, công chúng mục tiêu là những công chúng có sự tham gia là cần thiết để đạt được các mục tiêu của tổ chức; công chúng can thiệp là những người đưa ra ý kiến và hòa giải, những người truyền thông tin đến công chúng mục tiêu; và những người có ảnh hưởng là những công chúng mà công chúng mục tiêu chuyển sang tham vấn, những đánh giá giá trị của họ có ảnh hưởng đến việc công chúng mục tiêu sẽ phán xét bất kỳ tài liệu quan hệ công chúng nào.[2] Công chúng thường được nhắm mục tiêu đặc biệt là liên quan đến các chương trình nghị sự chính trị vì việc bỏ phiếu của họ là cần thiết để tiếp tục tiến triển của một mục đích nào đó. Như đã thấy ở Massachusetts trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2004, cần phải "giành được một khối lượng lớn các tiểu bang quan trọng và một khối hỗ trợ công chúng quan trọng" để hôn nhân đồng giới được thông qua trong cộng đồng chung.[6]

  1. ^ a b Heath 2005.
  2. ^ a b c d Rawlins & Bowen 2005.
  3. ^ a b Vasquez & Taylor 2001.
  4. ^ Jahanzsoozi 2006.
  5. ^ Toth 2006.
  6. ^ Denise Lavote [ngày 16 tháng 11 năm 2013]. “A Decade After Massachusetts' Landmark Gay Marriage Ruling, The Gains Are Clear”. Huff Post Politics. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.

  • Heath, Robert Lawrence biên tập [2005]. “Public sphere [Öffentlichkeit]”. Encyclopedia of public relations. 2. SAGE. ISBN 978-0-7619-2733-4.
  • Jahanzsoozi, Julia [2006]. “Relationships, Transparency, and Evaluation: The Implications for Public Relations”. Trong L'Etang, Jacquie; Pieczka, Magda [biên tập]. Public relations: critical debates and contemporary practice. Routledge. ISBN 978-0-8058-4618-8.
  • Rawlins, Brad L.; Bowen, Shannon A. [2005]. “Publics”. Trong Heath, Robert Lawrence [biên tập]. Encyclopedia of public relations. 2. SAGE. ISBN 978-0-7619-2733-4.
  • Toth, Elizabeth L. [2006]. “Building Public Affairs Theory”. Trong Botan, Carl H.; Hazleton, Vincent [biên tập]. Public relations theory II. LEA's communication series. Routledge. ISBN 978-0-8058-3384-3.
  • Vasquez, Gabriel M.; Taylor, Maureen [2001]. “Research perspectives on "the Public"”. Trong Heath, Robert Lawrence; Vasquez, Gabriel M. [biên tập]. Handbook of public relations. SAGE. ISBN 978-0-7619-1286-6.

  • Dewey, John [1927]. The public and Its Problems. Chicago: Swallow Press.
  • Grunig, James E. [1983]. Communications behaviours and attitudes of environmental publics: Two studies. Journalism Monographs. 81. Association for Education in Journalism and Mass Communication Publications.
  • Vasquez, Gabriel M. [1993]. “A Homo Narrens Paradigm for Public Relations: Combining Bormann's Symbolic Convergence Theory and Grunig's Situational Theory of Publics”. Journal of Public Relations Research. 5: 201–216.
  • Hannay, Alastair [2005] On the Public Routledge ISBN 0-415-32792-X
  • Kierkegaard, Søren [2002] A Literary Review; Alastair Hannay [trans.] London: Penguin ISBN 0-14-044801-2
  • Lippmann, Walter. The Phantom Public [Library of Conservative Thought], Transaction Publishers; Reprint edition, ngày 1 tháng 1 năm 1993, ISBN 1-56000-677-3.
  • Mayhew, Leon H. The New Public: Professional Communication and the Means of Social Influence, [Cambridge Cultural Social Studies], Cambridge University Press, ngày 28 tháng 9 năm 1997, ISBN 0-521-48493-6.
  • Sennett, Richard. The Fall of Public Man W. W. Norton & Company; Reissue edition, June 1992, ISBN 0-393-30879-0.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Công_chúng&oldid=67228022”

Video liên quan

Chủ Đề