Nhà Nguyễn có lấy đỗ Trạng nguyên không

GD&TĐ - Nhiều tư liệu lịch sử về triều Nguyễn thường nhắc đến quy định “tứ bất lập” hay “ngũ bất lập”: Không lập Tể tướng, Hoàng hậu, Hoàng thái tử, không phong Vương cho người ngoài, không lấy Trạng nguyên.

Tuy nhiên, nghi vấn lịch sử “không lấy Trạng nguyên” có vẻ không chính xác. Điều này thể hiện ở các tài liệu chính sử, cũng như qua bài thơ “Khẩu hiệu khuyến hội thí sĩ” in trong “Ngự chế thi sơ tập” của vua Minh Mạng.

Đem hết tinh hoa kiếm Trạng nguyên

Từ khoa thi tiến sĩ đầu tiên dưới triều Nguyễn là Nhâm Ngọ [1822] cho đến khoa thi cuối cùng là Kỷ Mùi [1919] có 39 khoa thi và số người lấy đỗ tiến sĩ và phó bảng là 558 vị. Trong số đó, không thấy vị nào đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh [Trạng nguyên].

Thời phong kiến, khoa cử được tổ chức lần lượt qua các cấp: Thi hương, thi hội, thi đình. Muốn lấy Trạng nguyên thì buộc phải tổ chức thi đình. Nhưng thực tế dưới triều Gia Long, việc mở mang quốc học mới bắt đầu, khoa cử chưa phát triển. Các kỳ khoa cử cao nhất được tổ chức vào giai đoạn này là thi hương [lấy đỗ phân hạng cử nhân và tú tài]. Người đỗ cử nhân sẽ tiếp tục được dự khoa thi hội, nhưng thi hội lại là chuyện của triều sau.

Khoa thi hội đầu tiên của triều Nguyễn được tổ chức lần đầu dưới thời Minh Mạng. Năm 1822, triều đình cử Trịnh Hoài Đức [Hiệp biện đại học sĩ] làm Chủ khảo trường thi hội. Vua Minh Mạng ban dụ rằng: “Khoa thi hội này là khoa đầu tiên, là điển lễ quan trọng, các ngươi nên rất mực công bằng, đừng phụ lời khuyên bảo của trẫm”.

Một chứng cứ để thấy sự khát khao của nhà Nguyễn muốn có được Trạng nguyên ở một đoạn sử liệu và bài thơ do vua Minh Mạng ngự chế. Sách Minh Mệnh chính yếu có chép nội dung là năm Minh Mệnh thứ 19, hoàng đế đến xem xét kỳ thi hội, gặp ngày mưa lạnh, quan trường thi ra nghênh đón, vua sai ban rượu cho viên này. Lại cấp ban chia cơm rượu, hỏa lò, chiếu cói cho sĩ tử dự thi và lại ban thêm một bài thơ do chính vua làm.

Bài thơ vua ban trong dịp này đã được in lại trong “Ngự chế thi sơ tập” của vua Minh Mạng. Vua đã đặt thêm nhan đề bài thơ là “Khẩu hiệu khuyến hội thí sĩ”: Tuyết trung tống thán kim triêu hữu/Thổ tận anh ba tác trạng nguyên/Tùng bách tuế hàn phương thức hảo/Các tu miễn lễ đáp quân ân.

Dịch thơ: Hôm nay rét lạnh đã ban than/Đem hết tinh hoa kiếm Trạng nguyên/Năm lạnh bách tùng lên tươi tốt/Cùng nhau gắng sức báo ơn trên - Bài thơ cho thấy vua Minh Mạng rất xem trọng việc tìm được nhân tài qua khoa cử. Nhà vua khuyến khích sĩ tử “Đem hết tinh hoa kiếm Trạng nguyên”.

Sau 39 khoa thi, số đỗ tiến sĩ và phó bảng là 558 vị nhưng nhà Nguyễn không tìm được Trạng nguyên vì yêu cầu khắt khe.
Tân khoa được ban phẩm phục.

Văn lý phải đạt 10 phân

Vua Minh Mạng mong muốn tìm kiếm Trạng nguyên nhưng không thành. [Chân dung vua Minh Mạng – tác giả John Crawfurd].

Theo TS Nguyễn Phước Hải Trung - Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, kết quả khoa thi năm 1838 chỉ có 11 người đỗ hạng trúng cách [tiến sĩ] sau đó được tham dự thi đình.

Hai tháng sau, thi đình được tổ chức vào tháng Tư [nhuận]. Kết quả thi đình lần này: Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân gồm 2 người Nguyễn Cửu Trường và Phạm Văn Nghị. Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân gồm 8 người, phó bảng chỉ lấy được 10 người.

Sau khi có kết quả thi, vua Minh Mạng hỏi Hà Quyền rằng: “Nguyễn Cửu Trường đỗ đầu thế nào? Thưa rằng văn của Cửu Trường rất có kiến thức. Vua bảo rằng: Trẫm xem văn, được thể thi đình, còn Phạm Văn Nghị thì thuộc điển cũ mà thôi”.

Cách thức thi hội dưới thời Nguyễn có sự thay đổi qua các triều, nhưng thường phổ biến trải qua bốn kỳ: Kỳ một thi Kinh nghĩa, kỳ hai làm bài về văn sách, kỳ ba thi về chiếu - biểu - luận, kỳ bốn thi về thơ phú. Khoa thi hội lấy đỗ phân thành hai hạng tiến sĩ và phó bảng. Người đỗ trúng cách [tiến sĩ] sẽ tiếp tục được dự khoa thi đình.

Khoa thi đình được tổ chức tại hoàng cung, muốn lấy đỗ Trạng nguyên thì phải căn cứ vào kết quả của khoa thi này. Đề thi đình là một bài văn sách do vua ra. Đây là một đề thi khó mà vào thời Nguyễn, có kỳ thi nhà vua trực tiếp chấm thi. Nhiều lúc không hài lòng về kết quả, vua đã chủ trương tổ chức thi lại.

“Những điều này cho thấy, vì trước năm 1822 triều Nguyễn chưa tổ chức thi đình nên làm gì có chuyện vua Gia Long cho đặt lệ không lấy Trạng nguyên. Chuyện không có Trạng nguyên qua các kỳ khoa cử vào thời Nguyễn lại liên quan đến quy định về kết quả thi”, TS Nguyễn Phước Hải Trung cho hay.

Trải qua các kỳ thi, triều Nguyễn đã quy định rất cụ thể cho việc lấy đỗ Trạng nguyên. Kỳ thi đình tháng Sáu năm Nhâm Dần [1842] vua Thiệu Trị hỏi Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên: “Xưa nay thi đình, lấy đỗ vào bậc Tam khôi thì văn lý như thế nào là được?”. Bọn Quế thưa rằng: “Văn cổ, văn kim đều phải 10 phần ý đủ, lời đẹp, mới xứng đáng vào bậc ấy”.

Vua nói: “Văn lý mà làm được vẹn cả 10 phần, thật không phải dễ. Đức Hoàng khảo ta mở giáp khoa để ý cầu người có học, nhưng về nhất giáp vẫn còn để trống. Đó cũng là để đợi người có tài cao, lạ, chứ không phải câu nệ về mực thước đâu”.

Tháng Ba năm Giáp Thân [1884] lại định lệ thi hội, thi đình về bên văn: “Năm Minh Mạng thứ 10 lệ định ai thi đình, văn lý được 10 phân thì cho Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh, ai được 9 phân thì cho Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh, ai được 8 phân thì cho Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh…”.

Năm Duy Tân thứ 4 [1910] lại quy định: “…tính thông cả các kỳ hội và kỳ điện thí, cộng lại rồi chia 6 thành. Người nào mỗi thành được 20 điểm, thì cho trúng Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh [Trạng nguyên], người nào được 18, 19 điểm thì cho trúng Đệ nhất giáp tiến sĩ Đệ nhị danh [Bảng nhãn], được 16, 17 điểm thì cho trúng Đệ nhất giáp tiến sĩ Đệ tam danh [Thám hoa]…”.

Chuẩn bị đón Tam khôi


Minh Mạng còn viết thơ cổ vũ thí sinh. Ảnh: NP Hải Trung.

“Tra cứu tất cả các loại chính sử của triều Nguyễn, không có một điều khoản nào quy định về “tứ bất lập” và không lấy đỗ Trạng nguyên. Nhiều người vẫn tin là triều Nguyễn đã đặt ra lệ “tứ bất lập” là điều dễ hiểu. Đáng tiếc, sự tin tưởng đó đã hệ lụy đến sự thật lịch sử” - TS Nguyễn Phước Hải Trung, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế

Khi mở khoa thi tiến sĩ, triều đình nhà Nguyễn cũng quy định quan phục cho các vị tiến sĩ. Riêng Trạng nguyên mũ làm bằng sa đen, đằng trước một cái hoa bằng vàng, đằng sau hoa bằng bạc, một cái bái sơn bằng bạc, hai cái cánh chuồn hai bên bọc bạc.

Áo bào màu lục bằng đoạn hoa to 8 tơ, bổ tử nền đỏ thêu con nhạn và mây. Quần màu đỏ sa hoa rắc, đai bằng tre hoa bọc đoạn vũ màu đỏ, chung quanh có 10 mảnh hình vuông, trên mặt khảm sừng có hoa, trong 10 cái miếng vuông thì 5 cái bịt bạc, 5 cái bịt đồng và võng, khăn, giày, tất, hốt gỗ.

Minh Mạng năm thứ 3 [1822] có nghị chuẩn ban mũ áo cho các tiến sĩ, và “cho riêng Đệ nhất giáp Đệ nhất danh một bộ mũ áo lục phẩm”. Tháng Chín năm Tân Hợi [1851] lại định rõ bổ quan cho các tôn sinh và ấm sinh: Tôn sinh đỗ Tam khôi thì đợi Chỉ vua cất lên dùng không phải theo thứ tự. Ấm sinh đỗ Đệ nhất giáp là người đỗ đầu khoa giáp, tới kỳ sẽ đợi Chỉ chọn dùng.

Tháng Hai năm Ất Sửu [1865] định rõ lại lệ bổ quan cho những viên tiến sĩ và phó bảng. Những cử nhân, giám sinh, ấm sinh, huấn đạo cùng chánh, tòng bát phẩm trở xuống mà trúng Trạng nguyên, bắt đầu thụ hàm Thị độc. Tôn sinh, giáo thụ cùng với chánh, tòng thất phẩm trúng Trạng nguyên, bắt đầu thụ hàm Thị giảng học sĩ.

Mặc dù, vua Minh Mạng thể hiện khao khát tìm kiếm Trạng nguyên, triều đình lại chuẩn bị trước các quy định bổ quan và phẩm phục Trạng nguyên. Tuy nhiên, sau 39 khoa thi triều Nguyễn vẫn không lấy được Trạng nguyên.

Nguyên nhân không có Trạng nguyên dưới triều nhà Nguyễn được cho là do văn lý chưa đạt 10 phân. Đến thời vua Kiến Phúc thang điểm chọn người đỗ Bảng nhãn, Thám hoa có hạ xuống nhưng đối với người đỗ Trạng nguyên vẫn giữ như cũ, văn lý bắt buộc phải đạt 10 phân.

Trải qua các kỳ thi hội, chưa lúc nào đạt kết quả toàn bích để có được Trạng nguyên, chính vua Minh Mạng cũng hết sức tâm tư. Vua Minh Mạng đến xem xét và duyệt kết quả và nói với Phan Huy Thực ở bộ Lễ rằng: “Thi đình rất khó lấy được người đỗ Đệ nhất giáp. Nếu không lấy thì là thiếu nhân tài, mà lấy phiếm, e không làm thỏa được nguyện vọng của sĩ phu”.

Băn khoăn là như thế, nhưng khoa cử vẫn phải giữ lẽ công bằng. Không có Trạng nguyên vẫn không miễn cưỡng để cân nhắc vớt vát, khiến các sĩ tử không phục. Điều này chứng minh khoa cử triều Nguyễn rất chú trọng khách quan, tư duy đào tạo hướng đến thực chất. Đó là minh triết trong giáo dục của người xưa.

Tuy nhiên, cũng chính vì không thấy người nào đỗ Trạng nguyên, nên hậu thế lầm tưởng và gán ghép cho triều Nguyễn là “bất lập Trạng nguyên”.

Trong giới sử học hiện nay hình thành 2 luồng ý kiến khác nhau về lệ bất khả của nhà Nguyễn. Nguyễn Phan Quang và Trương Hữu Quýnh cho rằng: để đề cao uy quyền nhà vua và ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng đế, vua Gia Long đã đặt ra lệ Tứ bất: trong triều không lập Tể tướng, thi Đình không lấy Trạng nguyên, trong cung không lập Hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoài họ vua.[47][169]

Lê Nguyễn có ý kiến ngược lại về vấn đề này, tuy nhiên ông chỉ đề cập tới "tam bất" chứ không phải "tứ bất":

"Trong khi triều Nguyễn có một Quốc sử quán làm việc thật hiệu quả, đã cho ra đời những bộ sử... lớn lao, thì không thấy ai viện dẫn một chỉ dụ nào của các vua Nguyễn quy định những điều bất khả đó..." [170]

Một trong những lí do khiến cho quan điểm hoàn toàn sai lầm này được quá nhiều người tin là vì nó được lặp đi lặp lại trong Sách giáo khoa Lịch sử dùng trong nhà trường: từ bậc Tiểu học đến Trung học Cơ sở và cả Trung học Phổ thông. Các Sách giáo khoa Lịch sử lớp 4 [bài 27], lớp 7 [bài 27] và lớp 10 [bài 25] [cả ban Cơ bản lẫn Nâng cao] của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam khi viết về giai đoạn Nguyễn sơ [1802 – 1858] không bao giờ quên việc chèn thêm một đoạn có nội dung đại khái là:

“Các vua nhà Nguyễn đề ra lệ tứ bất lập để củng cố quyền lực của mình, lệ tứ bất lập gồm: không lập Hoàng hậu, không lập Tể tướng, không phong tước Vương [cho người trong Hoàng tộc còn sống] và không lấy đỗ Trạng nguyên"

Kiến thức sai lệch này được giáo viên truyền tải trong các bài giảng, các thế hệ học sinh thuộc nằm lòng và vào cả các đề thi môn Lịch sử và biến nó thành một điều quá hiển nhiên khi nhắc về nhà Nguyễn. Tìm về nguồn gốc của lập luận này, không lạ mấy khi thấy chúng được nhắc đến lần đầu trong quyển sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội [1971], tức là thông tin này hoàn toàn không xuất phát từ chính sử triều Nguyễn mà được viết ra khi nhà Nguyễn cáo chung được 26 năm. Cuốn sách Lịch sử mang nặng tính giai cấp này đã chỉ rõ Hoàng đế Gia Long, người sáng lập Hoàng triều Nguyễn, là người đề ra lệ tứ bất lập. Tạm thời bỏ qua 3 lệ Bất lập còn lại: không lập Tể tướng, không lập Trạng nguyên và không phong tước Vương đã được các học giả khác bác bỏ hoàn toàn thì bài viết sẽ xoáy mạnh đến vấn đề “bất lập Hoàng hậu”. Đây là thiếu sót khá lớn của các học giả khác khi đã không thể bác bỏ ý sai này một cách triệt để, hậu quả là trong 4 lệ bất lập, khi 3 lệ bất lập kia đã được phần đông mọi người chấp nhận là sai lầm thì vẫn còn rất đông tin rằng: nhà Nguyễn bất lập Hoàng hậu.[171]

Bất khả Trạng nguyên

Thực tế là triều Nguyễn không có một Trạng nguyên nào. Trạng nguyên là người xếp hạng cao nhất trong số các tiến sĩ dự kỳ thi Đình dưới các triều đại trước. Thời Nguyễn, triều đình tổ chức thi Hội để lấy tiến sĩ và thi Đình để xếp hạng các tiến sĩ; các tân khoa tiến sĩ dự thi Đình được xếp theo giáp đệ, còn gọi là tam giáp:

  • Đệ nhất giáp.
  • Đệ nhị giáp gọi là đệ nhị giáp tiến sĩ cập đệ hay tiến sĩ Hoàng giáp.
  • Đệ tam giáp gọi là đệ tam giáp đồng tiến sĩ hay tiến sĩ xuất thân.

Việc xếp hạng tiến sĩ như trên không phải là sáng kiến mới của nhà Nguyễn nhằm “né tránh” danh hiệu Trạng nguyên hay hạ thấp địa vị của người thi đỗ cao nhất, mà việc này từng thực hiện dưới các triều đại trước:

  • Năm 1232 thời Trần Thái Tông mở thi Thái học sinh, "lấy Trương Hanh, Lưu Diễm đỗ đệ nhất giáp; Đặng Diễn, Trịnh Phẫu đỗ đệ nhị giáp; Trần Chu Phổ đỗ đệ tam giáp".[172]
  • Năm 1442 thời Lê Thái Tông, “Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ tiến sĩ đồng xuất thân…”.[173]
  • Năm 1499 thời Lê Hiến Tông, “cho Đỗ Lý Khiêm, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Khắc Kiệm ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Hoàng Trưng, Nguyễn Hằng 24 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân…”.[174]

Lê Nguyễn khẳng định cách thức xếp hạng tiến sĩ trong thi Đình theo giáp đệ đã xuất hiện trước khi có danh hiệu Trạng nguyên và không có gì khác biệt giữa hai cách gọi trên. Do đó, việc triều Nguyễn áp dụng hình thức giáp đệ trong thi đình mà không chọn Trạng nguyên là rất bình thường, không xuất phát từ một lệ “bất khả” nào.[175]

Bất khả hoàng hậu

Trên thực tế sử sách ghi nhận nhà Nguyễn có ít nhất 3 hoàng hậu: hoàng hậu thời Gia Long là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu [mẹ hoàng tử Cảnh], thời vua Hiệp Hòa là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu [vợ vua Tự Đức] và hoàng hậu thời Bảo Đại là Nam Phương hoàng hậu.

Ngoài ra, sử liệu nhà Nguyễn không hề phủ nhận sự tồn tại của ngôi vị hoàng hậu:[176]

  • Sách Minh Mệnh chính yếu ghi: “Nay châm chước đời xưa và đời nay, đặt bị quý phi, thần phi vào bậc nhất… trên bậc nhất đặt một vị hoàng quý phi để giúp Hoàng hậu điều khiển chính sự trong cung”.
  • Sách Đại Nam điển lệ toát yếu dành hẳn khoản 183 để định nghi thức “tuyên sách văn lập Hoàng hậu”.

Lê Nguyễn cho rằng: việc các triều vua từ Minh Mạng tới Khải Định không phong hoàng hậu không xuất phát từ lệ nào mà vì chưa tìm được người xứng đáng hoặc chưa thấy cần làm.[176]

Bất khả tể tướng

Thời Gia Long đặt quan chế trên cơ sở tham khảo thời Hậu Lê. Sang thời Minh Mạng có việc tổ chức lại bộ máy và áp dụng tới hết thời Nguyễn, theo đó đứng đầu bộ máy quan lại là tứ trụ triều đình. Khi tham khảo sử sách các đời trước cũng rất khó tìm thấy chức danh tể tướng trong hàng quan lại đầu triều:[177]

  • Thời Tiền Lê: Đứng đầu là thái sư, thái úy, tổng quản
  • Thời Lý: thái sư, thái phó, thái bảo, tổng quản, tướng công
  • Thời Trần: lấy ba chức thái, ba chức thiếu [thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo], thái úy, tư đồ, tư mã, tư không. Chức Tể tướng thì thêm danh hiệu Tả hữu tướng quốc bình sự
  • Thời Hậu Lê, trong quan chế thời Hồng Đức [Lê Thánh Tông] năm 1471 và được áp dụng phổ biến trong các triều vua Hậu Lê sau đó, không thấy có chức danh Tể tướng.

Như vậy việc triều Nguyễn không đặt chức danh Tể tướng cũng là điều bình thường như các triều đại trước, không có cơ sở để khẳng định đó là một điều quy định “bất khả tể tướng” của nhà Nguyễn.

Lê Nguyễn cho rằng việc nhà Nguyễn không đặt chức danh tể tướng, áp dụng chế độ khoa cử đỗ tam giáp và nhiều triều vua không phong hoàng hậu không có gì là bất thường và không phải là sự áp dụng riêng biệt của triều đại này, mà nó phù hợp và tiếp thu theo thông lệ từng có ở các triều đại trước.[178]

Video liên quan

Chủ Đề