Các nhà văn nhà thơ ở đắk Nông trước năm 1975

Trong thời kỳ đầu [1975 - 1990, trước khi có Hội Văn học Nghệ thuật [VHNT] Dak Lak], các tác phẩm xuất hiện trên văn đàn không nhiều. Ngoài những tác phẩm đăng trên tạp chí Văn nghệ của Ty Văn hóa - Thông tin [ra vài tháng 1 số] còn có những đầu sách khác với số lượng rất khiêm tốn. Tập thơ đầu tiên, xuất bản năm 1977, có tên gọi: “Đất lên màu”, tiếp theo đó là “Lời ru từ những cánh rừng” [tập thơ], “Thú rừng Tây Nguyên” [tập truyện viết cho thiếu nhi của Thiên Lương], “Đất gọi mùa” [tập thơ, xuất bản năm 1984]. Năm 1985, hàng loạt tác phẩm ra đời, đó là: “Thơ tặng tháng ba”, “Bài ca Dak Lak”, “Buôn Ma Thuột 1975 - 1985”, “Thất thủ Cao Nguyên” [truyện ký của Thiên Lương]…; đặc biệt, lần đầu tiên ở Dak Lak có tập thơ in riêng với tên “Niềm tin” [Vũ Nhật Hồng]. Sau đó việc in ấn xuất bản lại lắng xuống. Chỉ còn tạp chí Văn nghệ của Ty Văn hóa - Thông tin là nơi đăng tải tác phẩm của văn nghệ sĩ. Văn học thời kỳ này tập trung chủ yếu về đề tài chiến tranh cách mạng và ca ngợi cuộc sống mới. Đó là khí thế chiến thắng trong tư thế “đạp trên đầu thù” của những người cộng sản; tuyên truyền ý thức giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân; phản ánh cuộc đấu tranh chống lực lượng phản động Fulrô; ca ngợi phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa: làm ăn tập thể, cả tỉnh là một công trường lớn với những con người hăng say, nhiệt tình với lao động sản xuất…, mở ra một viễn cảnh tốt đẹp, xán lạn trên vùng đất này.

Năm 1990, Hội VHNT Dak Lak được thành lập, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của văn học - nghệ thuật tỉnh nhà. Các cuộc giao lưu tiếp xúc với các văn nghệ sĩ có tên tuổi ở trung ương và các tỉnh bạn được mở rộng, các trại sáng tác và các đợt đi thực tế được tổ chức, các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật được vận hành theo đúng tinh thần: Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân gắn liền với đường lối của Đảng. Nhờ có Hội VHNT, hàng trăm đầu sách văn học nghệ thuật được xuất bản. Đặc biệt từ 2004 trở lại đây, bằng nguồn Quỹ Hỗ trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật của ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam phân bổ, số lượng sách xuất bản tăng lên nhanh chóng [chỉ riêng năm 2004 và 2005, số lượng đầu sách được xuất bản cũng tương đương cả giai đoạn 1975 – 1990].

Một số tác phẩm văn học của Dak Lak xuất bản trong những năm qua. Ảnh: Lan Anh

Từ sau năm 1990, văn học Dak Lak tiếp tục đi sâu vào ca ngợi khí thế hào hùng của dân tộc, ca ngợi cuộc sống mới sinh sôi, vững tin vào tương lai; đấu tranh với những tàn dư của chế độ cũ, đấu tranh với những thế lực phản động đang âm mưu “diễn biến hòa bình”, đề cao tinh thần cảnh giác với những âm mưu và thủ đoạn phá hoại gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh với những tư tưởng lạc hậu…; cổ vũ ý chí cách mạng, kêu gọi mọi người góp sức vào công cuộc xây dựng đất nước, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân…

Với 47 dân tộc từ nhiều vùng miền về đây sinh cơ lập nghiệp, Dak Lak trở thành miền đất đa sắc tộc, đa văn hóa, nhiều tiềm năng để khai thác phục vụ việc sáng tạo văn học, nghệ thuật. Chính vì thế, văn học Dak Lak có “tiếng hát của trăm miền”, đậm chất sử thi nhưng không thiếu tính hiện đại, có tính triết luận của xứ Bắc nhưng cũng có sự mộc mạc của phương Nam, có cánh cò chấp chới và cũng có tiếng vó ngựa ô dồn dập… Những người cầm bút ở Dak Lak có ý thức kết hợp tinh hoa văn hóa của các dân tộc, kết hợp việc bảo tồn, phát huy các yếu tố truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình hoặc của quê hương bản quán, đồng thời biết giao lưu, tiếp thu các yếu tố tiên tiến để làm giàu cho nền văn hóa trên vùng đất đã được coi là máu thịt của mình. Muốn xây dựng con người, trước hết phải xây dựng chính mình. Ý thức được trách nhiệm đó, những người cầm bút ở Dak Lak đã tự xác định cho bản thân rèn luyện nhân cách, có hướng đi đúng đắn hơn trong quá trình sáng tác để làm sao trong mỗi tác phẩm phải cố gắng mang hơi thở cuộc sống, những tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người, góp phần bảo vệ, nuôi dưỡng, làm giàu và làm phong phú thêm nền văn hóa trên mảnh đất đại ngàn, quê hương của những sử thi và huyền thoại đầy bi hùng, của những vị anh hùng mà tên tuổi gắn liền với hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc; góp phần vào công tác giáo dục ý thức của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ cuộc sống. 

Trong những năm gần đây, Hội VHNT Dak Lak có chủ trương đưa văn học nghệ thuật về với cơ sở thông qua việc tổ chức các chuyến đi thực tế, các trại sáng tác trong tỉnh [mỗi năm có 5-7 chuyến đi thực tế, 2-3 trại sáng tác cho khoảng 100 lượt người] để các văn nghệ sĩ tiếp cận với thực tế cuộc sống, phản ánh cuộc sống và quay trở lại phục vụ cuộc sống. Nhiều tấm gương cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong phong trào xây dựng nông thôn mới, trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong việc xây dựng khối đại đoàn kết để góp phần giữ gìn an ninh trật tự cũng như giúp đỡ nhau làm kinh tế… được phản ánh bằng hình tượng văn học. Những điển hình đó ngày càng được nhân rộng trong đời sống thường ngày của các dân tộc Tây Nguyên.

Hội VHNT Dak Lak cũng hết sức quan tâm, chú trọng đến những cây bút là người dân tộc thiểu số. Kế tiếp lớp cao tuổi như Linh Nga, Kim Nhất là thế hệ trưởng thành qua các trại sáng tác Hạ Xanh và Hương Rừng dành cho thanh thiếu niên vào các mùa hè trong suốt 24 năm qua như Thanh Mai Niê, H’Trem Knul…, mới đây là: H’Wêra Niê, H’Xíu H’mok, H’Phi La Niê, H’Siêu Byă đang độ tuổi 20… Họ là những người sử dụng cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình, văn hóa của dân tộc mình làm tư liệu để phản ánh chính xác và chân thực cuộc sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong tác phẩm văn học.

Văn học đã góp phần làm cho đồng bào Tây Nguyên hiểu rõ bản chất phản động của tổ chức phản động Fulrô và cái gọi là "nhà nước Đêga độc lập” để không bị lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc. Văn học đã góp phần để cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thấy được các giá trị văn hóa của ông bà để lại, từ đó có ý thức giữ gìn, phát huy; đồng thời cũng thấy được những hủ tục lạc hậu để từ đó mà xóa bỏ. Văn học cũng đã góp phần cho đồng bào Tây Nguyên thấy được phương pháp làm kinh tế bằng việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất không chỉ là việc xóa đói giảm nghèo mà còn vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội. Văn học đã tác động sâu sắc vào tâm tư, tình cảm của con người để đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tự hào với dân tộc mình, quê hương mình... 

Mặc dù chưa có tác phẩm nào được đánh giá là “đúng tầm” so với yêu cầu đối với văn học của một vùng đất, chưa có tác giả nào được coi là “hiện tượng” trong suốt quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Dak Lak từ 1975 đến nay, nhưng có khá nhiều tác giả ở Dak Lak được bạn bè văn chương cả nước biết đến, nhiều tác phẩm có độ lan toả rộng, được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, của Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, được chọn vào các tuyển tập văn thơ...

Đội ngũ sáng tác văn thơ ở Dak Lak vẫn tiếp tục vươn lên hoà mình với cuộc sống, đoàn kết và sáng tạo ngày một sung sức cả về số lượng lẫn chất lượng. Lớp người đi trước có khoảng lùi cần thiết trong quá trình lắng đọng để nói ra những điều mà trước đây chưa kịp nói hoặc chưa thật chín; các cây viết lớp sau cũng bước vào giai đoạn sung mãn và đã phần nào hoà nhập được, nhìn nhận được cuộc sống với đa chiều, đa góc cạnh, mang sức bật của tuổi trẻ trong quá trình sáng tác; những cây bút chưa rõ định hình về bút pháp và phong cách sáng tác có điều kiện học tập, đang được hướng dẫn, bồi dưỡng có bài bản, được tiếp cận thông tin nhanh chóng nhờ công nghệ hiện đại sẽ là những nhân tố kế cận sự nghiệp sáng tạo văn học, cũng có số lượng đông đảo, đủ để chúng ta có quyền hy vọng văn thơ Dak Lak ngày một góp phần nhiều hơn trong việc hướng con người đến chân - thiện - mỹ.

Đối với các định nghĩa khác, xem Đắk Nông [định hướng].

Đắk Nông là một tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, miền Trung, Việt Nam.

Đắk Nông

Tỉnh Tỉnh Đắk Nông

Thác Đray Sáp

Hành chínhQuốc giaViệt NamVùngTây NguyênTỉnh lỵThành phố Gia NghĩaTrụ sở UBNDSố 63 đường 23 tháng 3 [QL28], phường Nghĩa Đức, thành phố Gia NghĩaPhân chia hành chính1 thành phố, 7 huyệnThành lập1/1/2004[1]Tổ chức lãnh đạoChủ tịch UBNDHồ Văn MườiHội đồng nhân dân52 đại biểuChủ tịch HĐNDLưu Văn TrungChủ tịch UBMTTQĐiểu Xuân HùngChánh án TANDNgô Đức ThọViện trưởng VKSNDNguyễn Văn CườngBí thư Tỉnh ủyNgô Thanh DanhĐịa lýTọa độ: 12°15′25″B 107°42′06″Đ / 12,256812°B 107,701721°Đ / 12.256812; 107.701721
Bản đồ tỉnh Đắk Nông

Vị trí tỉnh Đắk Nông trên bản đồ Việt Nam

Diện tích6.509,27 km²[2][3]:90Dân số [2021]Tổng cộng664.400 người[3]:93Thành thị108.000 người [16,26%][3]:99Nông thôn556.400 người [83,74%][3]:101Mật độ102 người/km²[3]:90Dân tộcKinh, Ê-đê, Nùng, M'Nông, TàyKinh tế [2021]GRDP20.728 tỉ đồng [896,1 triệu USD]GRDP đầu người52,1 triệu đồng [2.225 USD] KhácMã địa lýVN-72Mã hành chính67[4]Mã bưu chính64xxxxMã điện thoại0261Biển số xe48Websitedaknong.gov.vn

  • x
  • t
  • s

Năm 2021, Đắk Nông là tỉnh, thành Việt Nam đông thứ 57 về số dân, xếp thứ 52 về Tổng sản phẩm trên địa bàn [GRDP], xếp thứ 47 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 7 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 660.135 người dân[5], số liệu GRDP đạt 20,7 nghìn tỉ Đồng [tương ứng với 896,1 triệu USD], GRDP bình quân đầu người đạt 52,1 triệu đồng [tương ứng với 2.255 USD], tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,63%.[6]

Tỉnh Đắk Nông được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của tỉnh Đắk Lắk.[1]

Đắk Nông nằm ở cửa ngõ phía tây nam của Tây Nguyên, nằm trong vùng tọa độ từ 11°45 đến 12°50 vĩ độ bắc và từ 107°12 đến 108°07 kinh độ đông[7]. Trung tâm tỉnh Đắk Nông là thành phố Gia Nghĩa nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột với chiều dài 125 km theo đường quốc lộ 14, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 689 km về phía Bắc, cách Thủ đô Hà Nội 1358 km về phía Bắc, có vị trí địa lý:

  • Phía đông và đông nam giáp tỉnh Lâm Đồng
  • Phía tây giáp tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài khoảng 141 km[8]
  • Phía nam giáp tỉnh Bình Phước[9]
  • Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Đắk Lắk.

Các điểm cực của tỉnh Đắk Nông:

  • Điểm cực Đông: xã Đăk Plao, huyện Đắk Glong
  • Điểm cực Tây: xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức
  • Điểm cực Nam: xã Hưng Bình, huyện Đắk R'lấp
  • Điểm cực Bắc: xã Ea Po, huyện Cư Jút.

Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 2 cửa khẩu quốc tế với Vương quốc Campuchia là cửa khẩu Đăk Per thuộc huyện Đắk Mil và Bup'rang thuộc địa phận Tuy Đức[7].

Điều kiện tự nhiên

 

Cao nguyên Mơ Nông

Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, với độ cao trung bình từ 600 mét đến 700 mét so với mặt nước biển, cao nhất là ở Tà Đùng với độ cao lên đến 1.982 mét. Nhìn chung địa hình Đắk Nông chạy dài và thấp dần từ đông sang tây. Địa hình đa dạng, phong phú và bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao, với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lư­ợn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng[10].

Khí hậu Đắk Nông chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chính vì vậy chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng. Khí hậu phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình năm 2.513mm. Mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm 22–230C, nhiệt độ cao nhất 350C, thấp nhất 140C. Với điều kiện thời tiết này rất phù hợp với phát triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm. Tuy nhiên khí hậu ở Đắk Nông cũng có những mặt bắt lợi là sự mất cân đối về lượng mưa trong năm và sự biến động lớn về biên độ nhiệt ngày đêm và theo mùa, nên yếu tố quyết định đến sản xuất và sinh hoạt là việc cấp nước, giữ nước và việc bố trí mùa vụ cây trồng[10].

Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp, thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện. Đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, được chia thành 5 nhóm đất chính gồm Nhóm đất xám, đất đỏ bazan, còn lại là đất đen bồi tụ. Đất nông nghiệp chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó đất trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích[10].

Tỉnh Đắk Nông có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 71 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường, 5 thị trấn và 60 xã.[11]

Đơn vị hành chính Thành phố
Gia Nghĩa Huyện
Cư Jút Huyện
Đắk Glong Huyện
Đắk Mil Huyện
Đắk R'lấp Huyện
Đắk Song Huyện
Krông Nô Huyện
Tuy Đức Diện tích [km²] Dân số 2019 [người] Mật độ [người/km²] Số đơn vị hành chính Năm thành lập
284,11 720,70 1.447,76 681,58 635,56 806,46 813,74 1.119,25
63.046 92.464 67.782 100.702 84.283 80.726 75.435 61.384
221,91 128,30 46,82 147,75 132,59 100,10 92,70 54,84
6 phường, 2 xã 1 thị trấn, 7 xã 7 xã 1 thị trấn, 9 xã 1 thị trấn, 10 xã 1 thị trấn, 8 xã 1 thị trấn, 11 xã 6 xã
2019 1990 1975 1975 1986 2001 1987 2006
Nguồn: Dân số đến 01 tháng 4 năm 2019 - tỉnh Đắk Nông[12]

Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Đắk Nông

Thời Pháp thuộc năm 1893, người Pháp toàn quyền cai trị vùng cao nguyên Trung phần, trong đó có khu vực nay là tỉnh Đắk Nông. Hệ thống hành chính thực dân tập trung ở Đăk Mil và Đăk Song. Trong thời gian từ năm 1912 đến năm 1936, tại khu vực cao nguyên M'Nông đã diễn ra cuộc khởi nghĩa lớn và quy mô kéo dài chống lại thực dân Pháp do thủ lĩnh người dân tộc M'Nông là N'trang Lơng lãnh đạo. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, Pháp cho xây dựng Ngục Đăk Mil [nay thuộc huyện Đăk Mil].

Khu vực này năm 1946 thuộc Xứ Thượng Nam Đông Dương rồi đến năm 1950 thì gom vào Hoàng triều Cương thổ trước khi đơn vị này bị xóa bỏ năm 1955 dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn cứ của lực lượng quân cách mạng.

Tháng 1 năm 1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Quảng Đức trên cơ sở tách gần như toàn bộ quận Đăk Song [trừ tổng Đăk Lao ở phía bắc] và một phần quận Lăk từ tỉnh Darlac [Đắk Lắk], cùng với một phần nhỏ tỉnh Phước Long và tỉnh Lâm Đồng. Tỉnh lị đặt tại Gia Nghĩa. Địa giới hành chính tỉnh Quảng Đức, về cơ bản giống như địa giới tỉnh Đắk Nông ngày nay [trừ huyện Cư Jút hiện nay khi đó thuộc quận Ban Mê Thuột của tỉnh Darlac], được chia làm 3 quận: Đức Lập, Kiến Đức, Khiêm Đức và khu hành chính Đức Xuyên. Tháng 12 năm 1960, Chính quyền Cách mạng cũng đã quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức, giữa năm 1961, tỉnh Quảng Đức do khu VI trực tiếp chỉ đạo. Đầu năm 1962, Chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức, chuyển Đức Lập, Đức Xuyên nhập về tỉnh Đắk Lắk, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long, Khiêm Đức nhập về tỉnh Lâm Đồng.

Sau ngày hai miền thống nhất, tháng 5 tháng 1975, tỉnh Quảng Đức được tái lập lại. Tháng 11 năm 1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 22/2003/QH11 chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Khi tách ra, tỉnh Đắk Nông có 6 đơn vị hành chính gồm 6 huyện: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Nông, Đắk R'lấp, Đắk Song, Krông Nô. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông.[1]

Ngày 27 tháng 6 năm 2005, chia huyện Đắk Nông thành thị xã Gia Nghĩa [thị xã tỉnh lị tỉnh Đắk Nông] và huyện Đắk Glong.[13]

Ngày 22 tháng 11 năm 2006, chia huyện Đắk R'lấp thành 2 huyện: Đắk R'lấp và Tuy Đức.[14]

Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển thị xã Gia Nghĩa thành thành phố Gia Nghĩa. Tỉnh Đắk Nông có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.[11]

Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người

Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP

Năm 2021, mức độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Đắk Nông đứng thứ 2 Khu vực Tây Nguyên và đứng thứ 7 so với cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn [GRDP] năm 2021 theo giá so sánh 2010 ước đạt 20.728 tỉ đồng [tương đương 896,1 triệu USD], tăng 8,63% so với năm trước. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 52,1 triệu đồng/người [tương đương 2.225 USD/người]. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2021 ước đạt 2.847 tỉ đồng, đạt 103,74% dự toán địa phương giao và đạt 112,25% so với cùng kỳ năm trước; Chi ngân sách là 8.598 tỉ đồng, đạt 121,69% dự toán địa phương giao và tăng 12,91% so với năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính năm 2021 tăng thấp hơn so với mức tăng của các năm trước [năm 2021 tăng 4,90%, năm 2020 tăng 6,37%, năm 2019 tăng 10,38% so với cùng kỳ].[15]

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,11% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 18,74%; khu vực dịch vụ chiếm 38,69%; thuế sản phẩm [-] trừ trợ cấp sản phẩm, chiếm 4,46%.

Tổng sản lượng lương thực năm 2011 đạt 317,5 ngàn tấn, bằng 99,97% kế hoạch. Sản lượng cà phê nhân 140.069 tấn, 75% hộ dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch. Giá trị sản xuất trên 01 ha canh tác đạt 39,02 triệu, tăng 2,03 triệu so với năm 2010[16].

Lịch sử phát triển
dân số
Năm Dân số
2004 403.400
2005 423.600
2006 440.900
2007 457.300
2008 474.400
2009 491.000
2010 505.200
2011 516.300
2019 622.168
2020 637.905
Nguồn:[17]

Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Nông có 240 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông [cấp 3] có 22 trường, Trung học cơ sở [cấp 2] có 82 trường, Tiểu học có 136 trường, bên cạnh đó còn có 89 trường mẫu giáo[18]. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Đắk Nông cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh[18]. Ngoài ra tỉnh có 1 trường chuyên đó là Trường THPT chuyên Nguyễn Chí Thanh: Số 08 Lê Duẩn, Thành phố Gia Nghĩa.

Y tế

Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Nông có 79 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 8 trạm xá, 71 trạm y tế phường xã, với 1029 giường bệnh và 258 bác sĩ, 596 y sĩ, 859 y tá và khoảng 483 nữ hộ sinh[19].

Đắk Nông có bệnh viện tuyến tỉnh là Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Nông, nhưng cơ sở vật chất và kỹ thuật tại bệnh viện còn nhiều mặt hạn chế, thiếu các máy móc thiết bị hỗ trợ nên tình trạng bệnh nhân phải chuyển tuyến đến các bệnh viện tuyến trên như: Bệnh viện Chợ Rẫy [Hồ Chí Minh], Bệnh viện Đà Nẵng [Đà Nẵng], Bệnh viện Bạch Mai [Hà Nội], Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên [tỉnh Đắk Lắk] còn cao. Ngành Y tế của tỉnh đang tập trung về nhân lực, tìm hiểu các kỹ thuật hiện đại, tham gia các khóa đào tạo từ các bệnh viện tuyến trên để hạn chế được tình trạng trên.

Dân số tính đến ngày 1/4/2019 của toàn tỉnh đạt 622.168, trong đó dân số thành thị: 97.040 người, chiếm 15,04%; dân số nông thôn: 548.361 người, chiếm 84,96%; dân số nam: 330.108 người, chiếm 51,15%; dân số nữ: 315.293 người, chiếm 48,85%. Tổng tỷ suất sinh năm 2018 đạt 1,82 con/phụ nữ, tiếp tục duy trì ở mức sinh thay thế. Tỷ lệ tăng tự nhiên là 14,85‰; tỷ suất sinh thô là 21,01‰; tỷ suất chết thô là 6,16‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 24,7‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 37,6‰. Tuổi thọ trung bình của dân số toàn tỉnh năm 2018 là 69,92 năm, trong đó nam là 67,11 năm và nữ là 72,9 năm.[20]. Tỷ lệ dô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 28%.

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 281.643 người, nhiều nhất là Công giáo có 176.790 người, tiếp theo là đạo Tin Lành có 83.700 người, Phật giáo có 20.600 người, đạo Cao Đài có 341 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 97 người, Minh Lý đạo có 70 người, Hồi giáo có 18 người, Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chín người, tôn giáo Baha'i có bảy người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có sáu người, Bà La Môn có bốn người và 1 người theo Minh Sư đạo.[21]

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đắk Nông có 40 dân tộc. Trong đó, đông nhất là người kinh với 332.431 người, xếp thứ 2 là người Mnông với 39.964 người, vị trí thứ 3 là người Nùng với 27.333 người, người Mông ở vị trí thứ 4 với 21.952 người, cùng với các dân tộc khác như người Tày với 20.475 người, người Dao có 13.932 người, người Thái có 10.311 người, người Mạ có 6.456 người, Ê Đê có 5.271 người, người Hoa có 4.686 người, người Mường có 4.070 người[21]...cùng một số dân tộc ít người khác.

Theo thống kê năm 2020, tỉnh Đắk Nông có diện tích 6.509,27 km², dân số năm 2020 là 637.907 người, mật độ dân số đạt 98 người/km².[22]

Dân số Tỉnh Đắk Nông qua các năm 2010 - 2020
Năm
Thành thị Nông thôn Tổng
2010 76.329 434.241 510.570
2014 87.748 477.781 565.529
2015 89.838 494.074 583.912
2016 92.794 516.801 609.595
2017 95.281 532.786 628.067
2018 97.040 548.361 645.401
2019 94.770 527.398 622.168
2020 637.907
Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Đắk Nông

Nét đặc sắc của Đắk Nông có lẽ vẫn phần nào là rất nhiều của Đắk Lắk do một thời gian dài tỉnh này là một khu vực của Đắk Lắk.

Vùng đất này có nền văn hóa cổ truyền khá đa dạng của nhiều dân tộc đậm nét truyền thống và bản sắc riêng. Nơi đây còn lưu giữ nhiều pho sử thi truyền miệng rất độc đáo như sử thi Đam San dài hàng ngàn câu. Các luật tục cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông và tượng nhà mồ còn chứa bao điều bí ẩn đầy hấp dẫn.

Các loại nhạc cụ dân tộc từ lâu đời đã trở nên nổi tiếng và là niềm tự hào của cả vùng Tây Nguyên, của văn hóa dân gian Việt Nam: bộ đàn đá của người M'Nông [huyện Lăk - Đăk Lăk], bộ chiêng đá được phát hiện tại Đắk R'lấp có niên đại hàng ngàn năm về trước, đàn T'rưng, đàn K'lông pút, đàn nước, kèn, sáo... Nếu đúng dịp, du khách sẽ được tham dự những lễ hội độc đáo còn nguyên chất dân gian. Trong lễ hội, cả buôn làng cầm tay nhau nhảy múa xung quanh đống lửa theo nhịp của cồng, chiêng.

Có Quốc lộ 14, Quốc lộ 14C, Quốc lộ 28 đi qua.

  • Gia Nghĩa, Đắk Nông, Việt Nam.jpg

    Nhà hàng Sơn Mã Palace

  •  

    Sông Dak R'Tih

  •  

    Thác Gia Long

  •  

    Thác Dray Nur

  •  

    Thiền viện Trúc Lâm
    Cao nguyên

  •  

    Toàn cảnh Trúc Lâm

  •  

    Thị trấn Kiến Đức

  •  

    Thị trấn Đắk Mil

  1. ^ a b c “Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc Hội ban hành”.
  2. ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường [Việt Nam].
  3. ^ a b c d e Tổng cục Thống kê [2022]. Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 [PDF]. Nhà Xuất bản Thống kê. Lưu trữ [PDF] bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  4. ^ Tổng cục Thống kê
  5. ^ “Dân số các tỉnh Việt Nam”. Tổng cục Thống Kê Việt Nam. Truy cập Ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  6. ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Đắk Nông năm 2021”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Truy cập Ngày 30 tháng 12 năm 2021.
  7. ^ a b Vị trí địa lý tỉnh Đắk Nông Lưu trữ 2012-08-30 tại Wayback Machine, Trang Thông tin Điện Tử TTXT - Đầu tư, TM & DL Tỉnh Đắk Nông.
  8. ^ Chiều dài biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia Lưu trữ 2012-12-04 tại Wayback Machine, Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam
  9. ^ Vị trí địa lý, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
  10. ^ a b c Điều kiện tự nhiên tỉnh Đắc Nông, Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Nông
  11. ^ a b “Nghị quyết 835/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc thành lập phường Quảng Thành thuộc thị xã Gia Nghĩa và thành phố Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông”.
  12. ^ Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. “Dân số đến 01 tháng 4 năm 2019 - tỉnh Đắk Nông”. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2021.
  13. ^ Nghị định 82/2005/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Gia Nghĩa, thành lập các phường, xã thuộc thị xã Gia Nghĩa và đổi tên huyện Đắk Nông thành huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông
  14. ^ Nghị định 142/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, huyện; thành lập xã thuộc các huyện Đắk R'Lấp, Đắk Song, Đắk Mil và thành lập huyện Tuy Đức thuộc tỉnh Đắk Nông
  15. ^ [1]
  16. ^ Năm 2011, tốc độ tăng trưởng GDP toàn tỉnh đạt 12,13%, UBND tỉnh Đắk Nông - Vụ Kế hoạch
  17. ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  18. ^ a b Thống kê về Giáo dục Việt Nam, Niên giám thống kê 2011, Theo tổng cục thống kê Việt Nam
  19. ^ Y tế, Văn hoá, Thể thao và Mức sống dân cư , Tổng cục thống kê
  20. ^ “Niên thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2018”. CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐẮK NÔNG. 1 tháng 11 năm 2019.
  21. ^ a b Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
  22. ^ “Niên giám tổ chức ngành Thống kê năm 2021 [43-CỤC THỐNG KÊ TỈNH ĐẮK NÔNG/ Dân số tỉnh Đắk Nông đến ngày 31/12/2020 trang 320]” [PDF]. Tổng cục Thống kê. 5 tháng 5 năm 2021.

Bài viết tỉnh Đắk Nông, Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đắk Nông.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đắk_Nông&oldid=68929864”

Video liên quan

Chủ Đề