Nghệ thuật điêu khắc và trang trí của nhà như thế nào phần Tích biểu tượng con rồng thời Lý

Theo sử tích của Phật giáo, Đức Phật đã thành đạo dưới cây bồ đề nên loài cây này đã trở thành biểu trưng cho sự giác ngộ của Phật. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, hình tượng lá đề được sử dụng rất nhiều trong trang trí điêu khắc như vòm cửa chùa tháp, cung điện thời Lý.

Hình tượng lá đề thường lồng ghép với hình tượng rồng, phượng trong một tổng thể hài hòa, giàu thẩm mỹ.

Từ lâu nay, giới nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật ở Việt Nam đều công nhận một điều: nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một nét son rực rỡ trong lịch sử của nền nghệ thuật Việt Nam.Nền điêu khắc ấy định hình trong hoàn cảnh lịch sử đặc trưng, khi đất nước mới thoát khỏi cảnh nghìn năm nô lệ, người dân được hưởng cuộc sống ấm no, thịnh vượng. Trong cuộc sống thái bình ấy, Phật giáo – một tôn giáo mang đậm triết lý nhân bản phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo dưới thời Lý.Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, những nghệ nhân tài hoa đã tạo tác nên những tác phẩm điêu khắc mang vẻ đẹp của sự tự do trong cảm hứng sáng tạo và cái nhìn phóng khoáng thấm đẫm âm hưởng của Phật giáo.Điêu khắc đời Lý thường hướng vào đề tài thiên nhiên như mây, nước, hoa sen, hoa cúc… và đặc biệt là hình tượng lá đề và con rồng xuất hiện xuyên suốt trong các công trình kiến trúc. Theo sử tích của Phật giáo, Đức Phật đã thành đạo dưới cây bồ đề nên loài cây này đã trở thành biểu trưng cho sự giác ngộ của Phật. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, hình tượng lá đề được sử dụng rất nhiều trong trang trí điêu khắc như vòm cửa chùa tháp, cung điện thời Lý. Hình tượng lá đề thường lồng ghép với hình tượng rồng, phượng trong một tổng thể hài hòa, giàu thẩm mỹ. Theo các nghiên cứu về kiến trúc thời Lý, để thực hiện một lá bồ đề gắn phượng, 40 nghệ nhân thời Lý phải thay phiên nhau chạm khắc trong hai ngày. Đến phiên của mình, mỗi nghệ nhân chỉ được phép thực hiện công việc trong khoảng 10 phút để đảm bảo sự tập trung cao độ nhất cho tác phẩm... Dưới thời Lý, con rồng không chí tượng trưng cho quyền lực hoàng gia. Với nhiều nếp cong mềm mại, hình tượng con rồng thời kỳ này còn tượng trưng cho nguồn nước, niềm mơ ước cho cư dân trồng lúa. Hình tượng con rồng thời Lý mang phong cách rất khác biệt so với nhiều triều đại trong lịch sử. Rồng thời Lý mềm mại, uyển chuyến, không giống với hình tượng rồng to, khỏe thời Trần hay hình tượng rồng bệ vệ của Trung Quốc… Trong quá trình khai quật Hoàng thành Thăng Long, một lần nữa nền điêu khắc của thời đại lập quốc lại tỏa sáng qua việc xuất lộ các hiện vật điêu khắc tinh xảo. Đó là các loại vật liệu trang trí cung điện thời Lý như ngói gắn lá đề trang trí rồng, phượng, các tượng đầu rồng, phượng trang trí trên nóc mái…

Một số hình ảnh về các tác phẩm điêu khắc thời Lý đang được trưng bày tại Hoàng thành Thăng Long, Đất Việt ghi nhận.

Những hiện vật này là ngói úp nóc có gắn lá đề trang trí  rồng, phượng và tượng đầu rồng, đầu phượng... được dùng để gắn trên mái cung điện nhà Lý. 

Ở chính giữa mái cung điện là hình tượng lá đề lớn - biểu tượng của Phật giáo với đôi phượng chầu ở hai bên.  

Viên ngói gắn tượng đầu chim phượng này được dùng để trang trí đầu nóc mái cung điện. Theo tín ngưỡng dân gian, chim phượng một trong tứ linh [long, li, quy, phượng] và cũng là loài chim đẹp nhất trong số 360 loài chim.

Đầu rồng thời Lý thống nhất ở kết cấu tạo hình: đầu nhỏ với miệng mở vờn một viên ngọc hay tinh tú đang xoay, răng nanh kéo dài xoắn với môi trên thành đường sống của chiếc mào có đường viền loăn xoăn như ngọn lửa đang bốc cao, phía trên mắt có những hoạ tiết hai đầu cuộn lại cùng chiều như số 3 ngửa và ngược chiều như hình chữ S, quanh mép có những lông măng và từ đó có một mảng kéo dài ra bốc lên lượn sóng làm bờm tóc. Hiện vật ở trên cũng là một viên ngói trang trí nóc mái.

Ở hai bên của hình tượng lá đề lớn [nằm chính giữa nóc mái cung điện] là hai hàng ngói gắn lá đề lệch có trang trí rồng hoặc phượng. Tuy kích thước nhỏ nhưng những viên ngói này cũng được chạm khắc rất tỉ mỉ. Trong ảnh là ngói gắn lá đề lệch trang trí hình rồng.

Còn đây là ngói gắn lá đề lệch trang trí hình chim phượng.

Ngói ống lợp diềm mái gắn lá đề trang trí rồng [hoặc phượng] là loại ngói độc đáo nhất trong khu vực châu Á, mang bản sắc riêng của nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam.  Các di tích kinh đô cổ của các nước trong khu vực không có loại ngói ống cầu kỳ như thế này mà chỉ lợp ngói ống có đầu trang trí linh thú hay hoa sen, hoa cúc.

Để thực hiện một lá đề gắn phượng [như trong ảnh], 40 nghệ nhân thời Lý phải thay phiên nhau chạm khắc trong hai ngày. Đến phiên của mình, mỗi nghệ nhân chỉ được phép thực hiện công việc trong khoảng 10 phút để đảm bảo sự tập trung cao độ nhất cho tác phẩm...

Những hiện vật này là ngói úp nóc tạo hình cổ rồng. Không chỉ tượng trưng cho quyền lực hoàng gia, rồng thời Lý còn tượng trưng cho nguồn nước, nguồn sống của các cư dân trồng lúa.

Những mảnh vỡ này thuộc về các hình tượng trang trí bên thành bậc cung điện, gồm bàn chân linh vật sấu thần và một đoạn thân rồng.

Đầu máng nước tạo hình đầu sư tử [trên] và một mảnh ngói úp nóc gắn tượng chim uyên ương tuyệt đẹp, minh chứng khác cho trình độ thẩm mỹ rất cao của người thời Lý.

Gạch vuông trang trí hoa sen [trên] và gạch vuông trang trí hoa cúc dây [dưới] là loại gạch có độ dày từ 8-15cm, dùng để lát nền cung điện. Hoa văn trang trí  trên gạch cũng thế hiện ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo.

Những viên gạch này ghi niên hiệu "Long Thụy thái bình tứ niên tạo", nghĩa là gạch được làm vào triều vua Lý thứ 3 - tức Lý Thánh Tông [1054 - 1072], niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình thứ 4.

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại về rồng, với biểu hiện linh thiêng, về phát sinh phát triển, như chúng ta từng tự hào là con cháu của Lạc Hồng [Lạc Long Quân và Âu Cơ]. Rồng gắn bó trong văn hoá tín ngưỡng dân gian. Rồng là biểu tượng vật linh, mang lại mưa thuận gió hoà, là mong cầu, ước muốn của đời sống cư dân nông nghiệp lúa nước. Nó được phát huy sáng tạo trong nghệ thuật vương triều, đình, đền, chùa truyền thống, mãi mãi đậm sâu trong tiềm thức nhân dân.

 Thăng Long nơi Rồng vàng xuất hiện. Hình tượng con Rồng Lý sáng tạo còn là bảo lưu của con rồng dân gian vốn có lâu đời của dân tộc. Nhà Lý đã duy trì gìn giữ những biểu tượng của Rồng truyền thống, và đưa lại ý nghĩa mới của vương quyền. Hình tượng Rồng thời Lý trở thành biểu tượng cao quý - quyền uy của Vương quyền và linh thiêng của Thần quyền [với đạo Phật là Quốc giáo].

Hình tượng Rồng chỉ thực sự phát triển từ triều Lý [thế kỷ XI-XII], mở đầu cho nền văn minh Đại Việt sau ngàn năm Bắc thuộc. Đây là thời kỳ đạo phật được phát triển mạnh, tinh thần tự cường dân tộc luôn được đề cao, nhiều công trình văn hoá nghệ thuật được xây dựng, nghệ thuật trang trí hoa văn cũng phong phú đa dạng. Hình tượng Rồng mang tính linh thiêng, cao quý. Đường nét mềm mại, tinh tế, bố cục hoàn chỉnh nhất quán, mang rõ phong cách.

Hình tượng Rồng trong Tứ Linh [Long- Ly - Quy - Phượng] là đề tài quan trọng của Mỹ thuật truyền thống. Rồng còn là hình tượng độc lập, được thể hiện ở Điêu khắc [Tượng và Phù điêu], trên chất liệu [gỗ, đá]. Hoặc Rồng là Hoa văn, họa tiết được thể hiện ở trang trí [trên chất liệu Giấy, Lụa]. Nó ứng dụng trong các Hợp thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc và trang trí thời Lý. Rồng là hình tượng nghệ thuật được đặt ở những vị trí quan trọng trong các kiến trúc Hoàng thành, trang trí trên các cột [gỗ hay đồng] trong kiến trúc Hoàng cung. Hình Rồng thể hiện trên trang phục [Hoàng bào], trên  vương miện, cân đai, của vua, hay trong các Chiếu chỉ, Sắc  phong... biểu thị uy quyền của vương triều.

  Hình tượng rồng trong các ngôi Chùa Phật [Đạo Phật là Quốc giáo], luôn đi liền với vật tế lễ, thờ tự. Hình Rồng trên các Hoành phi, Cửa võng, Long đình, Kiệu , Ngai, trong các Đồ thờ, đồ tế -lễ. Hình tượng rồng trong: Đền, Miếu [hoặc ở Đình từ thế kỷ 16 về sau] thờ những thánh, thần có công với dân. Hình Rồng trên Văn bia đá: Rồng chầu Nhật, Nguyệt [mặt trời, mặt Trăng] chầu lá đề nhà Phật, trên cột đá. Hình Rồng trang trí trên binh khí, trên án thư, hương án, vòm trần, tán lọng... Dù là hình tượng Rồng độc lập hay phối hợp với các mô típ hoa văn, trang trí, chạm khắc thì con Rồng trong nghệ thuật thời Lý có đặc trưng riêng với một phong cách và hình dáng uốn lượn độc đáo.

Cái đẹp của Hình tượng Rồng thể hiện trên các loại hiện vật rất phong phú. Về Hình, khối, Hình dáng Rồng Lý: phần lớn trong  chạm khắc không quá sâu [tức là khối không làm  nổi cao], mà chủ yếu chú ý nhiều đến hình dáng, mang nhiều chất hoạ. Do vậy khi in rập giấy dó lên các chạm khắc thực hiện được tương đối thuận lợi. Bố cục Hình Rồng Lý: được quy vào trong các loại hình học. Chẳng hạn:  Bố cục trong hình Chữ nhật: như các bức chạm đá “Hình Rồng chầu lá đề, đăng đối hai bên là hình các Tiên nữ, nhạc công múa hát” [đế kê chân cột chùa Phật Tích- năm 1057]. Các “Hình Rồng chầu lá Đề”, “ hình rồng trên bệ” [tượng Phật, chùa Phật Tích - năm 1066, xã Phật Tích-Tiên Sơn-Bắc Ninh]. “Hình rồng trên vách đố” bằng đá [Tháp Chương Sơn - năm 1117], hoặc “Hình rồng trên đồ đất nung “ phát hiện ở khu vực thành Thăng Long. Hình Rồng trong bố cục hình tròn: như chạm đá “Hình Rồng và hoa dây” [Tháp Chương Sơn - năm 1118, Yên Lợi- ý Yên- Nam Định]. Hình Rồng trong bố cục hình bán nguyệt: “Các hình Rồng chầu”, [chạm đá - năm 1118, trong trán bia Chùa Long Đội - Đọi Sơn -Duy Tiên - Hà Nam]. Hình Rồng trong bố cục hình lá Đề: “Hình Rồng chầu dâng Ngọc”, Gốm [phát hiện ở  khu vực thành Thăng Long Hà Nội].  Hình Rồng trong bố cục hình cánh hoa Sen: “Hình Rồng trong các cánh Liên hoa” bệ tượng [Tháp Chương Sơn - năm 1117], hoặc “Hình rồng trên các cánh hoa Sen” chạm ở mặt trụ đá kê chân cột ở một số công trình kiến trúc Lý mà Khảo cổ học phát hiện được ở khu Hoàng Thành Thăng Long...

Nhận diện hình tượng, đặc điểm phong cách tạo hình Rồng thời Lý: trên cơ sở so sánh, đối chiếu với hình Rồng [các thời tiếp sau: Trần, Lê, Mạc, Nguyễn]. Ta thấy Rồng ở mỗi vương triều đều có đặc điểm và phong cách riêng.

 Vương triều Lý kéo dài suốt 216 năm, Hình tượng Rồng có một phong cách độc đáo, và có kiểu dáng nhất quán, được quy định thống nhất mang tính vương triều. Điều này được nghệ nhân tuân thủ triệt để. Trên thực tế khảo sát chúng tôi thấy rằng: bất kỳ hình rồng ở di tích nào thời Lý, dù ở cách xa nhau, dù làm vào những năm khác nhau, dù là kiến trúc vương quyền hay kiến trúc thần quyền thì về cơ bản hình tượng con Rồng Lý vẫn đều có kiểu dáng và cấu trúc rất thống nhất.

 Đặc điểm Hình tượng Rồng thời Lý: mình Rồng kéo dài, thể hiện theo lối nhìn nghiêng. Đầu Rồng với cổ ngước chếch lên cao. Trên lông mày Rồng kết xoắn giống hình số 3 ngửa [theo nhãn vòng Kim cô nhà Phật], và trước trán kết xoắn hình chữ S đứng [ký hiệu tựa hình chớp của hiện tượng tự nhiên ý niệm cổ về  uy lực của Phật Pháp Lôi - Pháp Điện [sấm chớp]. Sau gáy rồng, từ hai bên dưới mang tai có dải bờm nhiều tua kết vào nhau bay thả uốn lượn vút nhọn ra phía sau. Chòm râu dưới cằm rồng cũng kết xoắn uốn lượn tương tự phía dưới, nhưng nhỏ và ngắn hơn. Quanh đầu có những viên ngọc lơ lửng và thường có mây quấn. Miệng rồng há rộng để hứng viên ngọc báu. Trên hai hàm có răng nhọn, hai nanh cuối hàm kéo dài uốn cong qua mép liền sát mũi. Mũi Rồng cũng được kéo dài thành một mào hình vòi. Mào của Rồng cũng hơi uốn khúc và chung quanh có viền kiểu ngọn lửa. Môi dưới của Rồng ngắn, còn lưỡi lại rất dài. Từ hàm dưới lưỡi vươn ra uốn lượn  sóng để đỡ lấy viên ngọc đang lơ lửng. Mắt Rồng to tròn và  hơi lồi. Cũng còn có loại đầu Rồng nữa là: cổ uốn xuống gấp khúc rồi ngược lên [trông cổ Rồng như rụt lại] - như đôi rồng chạm trên mặt trán bia Bia chùa Báo Ân [Thanh Hoá]. Hoặc Rồng đàn nối đuôi nhau trên thành bậc chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh

  Thân Rồng cuộn khúc uốn lượn thuôn dần đến cuối đuôi. Đặc biệt là mình Rồng tròn, trơn, uốn lượn mềm mại hình sin, các khúc uốn lượn phình to nhưng co lại gần nhau, đều đặn, thon dần về đuôi. Hình dạng khúc cong giống như hình túi đáy phình, miệng co [đặt xuôi, đặt ngược liên tục một mạch] thu dần về đuôi. Mình Rồng để trơn [hoặc có vẩy trên thân những con rồng to]. Mặc dầu trên lưng có vẩy cứng nhưng không nổi cao, nên trông vẫn thon mượt. Rồng Lý có 4 chân, mỗi chân đều có khuỷ, và có 3 móng ngón. Toàn bộ thân hình Rồng khái quát quy hình Rồng nằm gọn vào đúng một nửa hình lá Đề, nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi.

  Hình tượng Rồng thường được kết hợp với mây [dạng mây bay, mây tụ, mây hình lửa, mây hình hoa...]. Hình tượng Rồng để trang trí đăng đối [Rồng chầu], Rồng còn được kết hợp với hình   tượng Phượng, thành cặp Long- Phượng. Hoặc Rồng trong bộ Tứ linh: “Long, Ly, Quy, Phượng”, hoặc kết hợp với hoa dây, hoa Sen...  Hình tượng Rồng triều Lý [1010-1125] được chọn trang trí ở nơi trang trọng trên các công trình của Vương triều, và các Chùa thời Lý [như các chùa: Dạm, Phật Tích, Long Đội, Chương Sơn, Quỳnh Lâm, Báo Ân, Linh Xứng, Sùng Nghiêm, Diên Thánh ... Nội dung tư tưởng thẩm mỹ hình tượng Rồng thể hiện rõ tính cách quyền quý. Đó là những nét tiêu biểu của hình tượng Rồng thời Lý.  Song bên cạnh tính cách dân gian cũng đã dần bộc lộ tâm lý cộng đồng, tâm hồn khoáng đạt thanh cao, hàm chứa trí tuệ uyên bác. Tư tưởng đó sau này phát triển trên các chạm khắc Đình làng. Những hình tượng Rồng không chỉ là mô típ trang trí mà còn là hình tượng sinh động. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của vương triều mình.

  Hình tượng Rồng thời Lý được nghệ nhân sáng tạo ứng dụng trong các Hợp thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc - Trang trí. Hình tượng Rồng có trong các di tích lịch sử văn hoá truyền thống.  Nó không chỉ không những mang tính ứng dụng mà còn có giá trị  về nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên, các di vật thời Lý, còn lại đến ngày nay không nhiều, những ngược tìm quá khứ trên những di tích còn lại, và cố gắng của Khảo cổ học tìm bới: Hình rồng phát hiện ở Hoàng thành Thăng Long [2000-2005] cung cấp thêm cho ta một số hiện vật gốm có hình Rồng thời đầu lập đô Thăng Long của nhà Lý.       

Page 2

Video liên quan

Chủ Đề