Mục đích của nhân nghĩa thể hiện trong Nước Đại Việt ta là gì

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta

Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ [Lê Lợi] viết [bằng chữ Hán] vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi truyền cáo với nhân dân cả nước về chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, rất thán phục và coi là áng thiên cổ hùng văn. Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam [sau bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt [?] và trước bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Hồ Chí Minh].

Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu. Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc được vai trò của nhân dân, của hòa bình trong việc phát triển quốc gia. Trong tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu cao tinh thần chính nghĩa của cuộc kháng chiến: 

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm, nêu cao tư tưởng chủ đạo và cũng là mục đích dựng cờ tụ họp hiền tài của nghĩa quân. Ông một lòng yêu dân, vì dân, lấy dân làm gốc. Đây là phạm trù tư tưởng của Nguyễn Trãi, muốn cứu nước trước hết phải yên dân, nhân dân phải được ấm no, hạnh phúc. Nguyễn Trãi đề cao tư tưởng nhân nghĩa, đó là phương châm chính trị trong đấu tranh cũng như mục đích xây dựng nền văn minh cho quốc gia. Cuộc kháng chiến của chúng ta chôn quân Minh xâm lược là cuộc chiến vì chính nghĩa, cái chính nghĩa sẽ thắng cái phi nghĩa. Cốt lõi tư tưởng cần thiết chính là yên dân, lấy dân làm gốc thì quốc gia mới vững mạnh. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhấn mạnh: 

Khó trăm lần không dân cũng chịu


Khó vạn lần dân liệu cũng xong

  •  Trong lòng mẹ
  •  Trường từ vựng

Nguyễn Trãi một đời lo cho dân, cho nước, tư tưởng nhân nghĩa được ông tâm niệm, ông nói với vua Thái Tông rằng: “Thời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc là phải thời lắm. Song không có gốc thì không thế vững, không có văn thì không thể lưu hành. Hòa bình là cái gốc của nhạc... Dám mong bệ hạ rủ lòng thương yêu và chăn nuôi muôn dân khiến trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ cái gốc của nhạc ấy”. Ngay cả khi cuộc chiến chống Minh thắng lợi, ông cũng dùng phương châm này để ứng xử với kẻ thù; 

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn


Lấy chí nhân để thay cường bạo... Đến lúc hòa bình, nhân dân đã yên ấm, ông lại ưu tư, vẫn cứ một tư tưởng đặt nhân dân lên trước hết: 

Long thánh muốn cho dân ngơi nghỉ


Rốt cuộc phải xây dựng nền thái bình bằng văn trị 

Phạm trù nhân nghĩa vốn là khái niện đạo đức của Nho giáo, nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương người trong xã hội. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy dân làm gốc. Đó là tư tưởng tiến bộ đặc biệt, có ý nghĩa không chỉ với thời đại đó mà còn cả cho ngày nay.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

________________________ĐỀ SỐ 84________________________

Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp của Nguyễn Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta [trích Bình Ngô đại cáo].

BÀI LÀM

Nguyễn Trãi là người luôn phụng thờ một tư tưởng lớn: tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các sáng tác thơ văn Nguyễn Trãi, khiến cho các tác phẩm của ông có một giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, trong Bình Ngô đại cáo, đoạn trích Nước Đại Việt ta, tư tưởng ấy thể hiện đậm nét.

Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi nêu lên một mệnh đề về nguyên lí nhân nghĩa:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nằm ở hai từ yên dân và trừ bạo. Nói cụ thể hơn nội dung của tư tưởng đó là yên dân, làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh phúc và yêu nước chống xâm lược.

Đối với Nguyễn Trãi, chữ dân ở đây không có tính chất chung chung mà là người dân đất Việt, những người dân đang lâm vào hoàn cảnh khốn cùng của chiến tranh loạn lạc, những người dân vô tội đang bị giặc Minh tàn sát. Vì thế, ở phần sau của bài cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ hơn tình yêu của dân bằng việc vạch trần tội ác tàn bạo của bọn xâm lược và bộc lộ nỗi đau đớn xót xa trước những thảm cảnh mà nhân dân đang nếm trải:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Ta đọc thấy trong câu văn Nguyễn Trãi có cả ngọn lửa căm hờn và tiếng thổn thức của một trái tim giàu yêu thương đang rớm máu.

Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa vì dân, làm cho dân được hưởng thái bình hạnh phúc. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Muốn cho dân được an hưởng thái bình hạnh phúc, lúc bấy giờ, không có con đường nào khác là phải diệt trừ giặc ác, cứu sống dân. Vì thế Nguyễn Trãi mở rộng nội dung nhân nghĩa lên một mức cao hơn:

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Giặc tàn bạo đã gây tội ác, đến trời đất cũng không thể dung tha. Ngọn lửa căm hờn rực cháy trong tim người anh hùng dân tộc:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đọc kĩ câu văn Nguyễn Trãi, ta nhận thức rõ hơn, giặc ở đây không chỉ là kẻ thù của nhân dân, mà còn là kẻ thù của quốc gia, của dân tộc: giặc nước. Trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, bên cạnh chữ yên dân còn thêm chữ yêu nước. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không mang tính chất triết lí giáo điều, mà được cụ thể hóa bằng lòng yêu nước thương dân nồng nản, thiết tha.

Lí tưởng nhân nghĩa lí tưởng dân nước là lí tưởng suốt đời Nguyễn Trãi luôn ôm ấp và theo đuổi, nó sâu sắc và mạnh mẽ đến mức:

Bụi một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông

[Thuật hứng V]

và Nguyễn Trãi suốt đời trung thành với nó:

Bụi một tấc lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen

[Thuật hứng XXIV].

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một tư tưởng lớn, tư tưởng thời đại. Tư tưởng ấy cao đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kế thừa và phát huy truyền thông nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc. Chính truyền thống nhân nghĩa ấy kết hợp với chân lí độc lập dân tộc đã tạo nên sức mạnh thần kì để nhấn chìm mọi kẻ thù cướp nước, làm nên những chiến công hiển hách, những chiến thắng vang dội.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi ổ Mã.

và trong cuộc kháng chiến chống Minh đã tạo nên sức mạnh rung trời chuyển đất:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Đưa ra tư tưởng nhân nghĩa ngay ở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi muốn khẳng định ngọn cờ chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại, đồng thời cũng vạch rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bọn cuồng Minh [khi xâm lược nước ta chúng giương chiêu bài phù Trần diệt Hồ để che giấu tội ác]:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Càng đọc Bình Ngô đại cáo, ta càng thấm thìa về tấm lòng yêu nước thương dân thiết tha, sâu sắc, về nhân cách vĩ đại và tiết tha cao cả của một con người suốt đời vì nước vì dân: “ức Trai sáng tựa sao khuê” – Lê Thánh Tông.

TẢI VỀ FILE

>> Xem thêm :

+ Nước Đại Việt ta – Bình Ngô đại cáo – Bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt – Văn mẫu lớp 8

Related

Mục đích của “nhân nghĩa” thể hiện trong “Nước Đại Việt ta” là gì?

Tác phẩm đề cao tư tưởng gì?

Mục đích của việc nhân nghĩa thể hiện trong Bình Ngô đại cáo?

Tác phẩm nào trước đó cũng đã khẳng định chủ quyền của dân tộc ta ?

Câu nào giải thích chính xác nhất nghĩa của từ “hào kiệt” ?

Mục đích của việc nhân nghĩa thể hiện trong Bình Ngô đại cáo?

A. Nhân nghĩa là lối sống có đạo đức và giàu tình thương.

B. Nhân nghĩa là để yên dân, làm cho dân được sống ấm no.

Đáp án chính xác

C. Nhân nghĩa là trung quân, hết lòng phục vụ vua.

D. Nhân nghĩa là duy trì mọi lễ giáo phong kiến.

Xem lời giải

Video liên quan

Chủ Đề