Hiến pháp xuất hiện lần đầu tiên ở nhà nước

“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.” Hiểu được vai trò quan trọng của Hiến pháp nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Hiến pháp ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ sau khi nước ta giành được độc lập.

Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – khẳng định được sự tồn tại hợp pháp, tự chủ của nước ta và khẳng định những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Hiểu được điều đó, em xin chọn đề bài: “Quá trình xây dựng, ra đời và giá trị của Hiến pháp đầu tiên”.

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình đường lối cách mạng Việt Nam
  • Hiến pháp Việt Nam 1946

Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Nhờ có nghệ thuật chớp thời cơ, đoàn kết dân tộc cùng với sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và nhiều nguyên nhân khác, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở nước ta đã thành công tốt đẹp, đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần 1 thế kỷ, lật đổ chế độ quân chủ và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Chỉ trong vòng 15 ngày cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân. 

Sau đó đến ngày 2/9/1945, tại cuộc Mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình, HÀ Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với đồng bào cả nước và nhân dân thế giới:

  • Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đến ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định việc xây dựng một bản Hiến pháp là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ vì Người luôn ý thức được tầm quan trọng của Hiến pháp với một quốc gia độc lập. Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu bao gồm:
  • Vĩnh Thụy [tên của vua Bảo Đại sau khi thoái vị], Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu [Trường Chinh].
Quá trình xây dựng, ra đời và giá trị của Hiến pháp đầu tiên

Quá trình xây dựng và hoàn thành Hiến pháp đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Bản dự thảo Hiến pháp đã được soạn thảo công bố vào tháng 11 năm 1946

Ban dự thảo Hiến pháp [Tiểu ban Hiến pháp] được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3 năm 1946 gồm có 11 thành viên: Tôn Quang Phiệt, Trần Duy Hưng, Nguyễn Thị Thục Viên, Đỗ Đức Dục [Dân chủ Đảng], Cù Huy Cận [Dân chủ Đảng], Nguyễn Đình Thi [Việt Minh], Huỳnh BÁ Nhung, Trần Tấn THọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ [4 người thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng]. Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo Hiến pháp.

Quá Trình xây dựng và ra đời và giá trị của hiến pháp đầu tiên

Trong phiên họp ngày 29/10/1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho các nhóm, các vùng đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo hiến phpas và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận, sửa chữa và thông qua.

Bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu. Sau đó, Quốc hội ra nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc hội “cùng với chính phủ ban bố và thi hành hiến pháp khi có điều kiện”, “trong thời kỳ chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ba hành các sắc luật”. 

Nội dung cơ bản của Hiến pháp đầu tiên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là một bản hiến văn ngắn, bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.

Lời nói đầu khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của bản Hiến pháp này:

  • “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.”
  • “Đảm bảo các quyền tự do dân chủ”.
  • “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.”

Chương I quy định về Chính thể của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chương II quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, xác nhận sự bình đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.

Chương III quy định về nghị viện nhân dân.

Chương IV quy định về Chính phủ – cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc.

Chương V quy định phương diện hành chín, bộ, tỉnh, huyện, xã; quy định về cơ quan hành chính [ủy ban hành chính và hội đồng nhân dân] các cấp.

Chương VI quy định về cơ quan tư pháp bao gồm tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị và sơ cấp.

Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có quyền phúc quyết hiến pháp của dân.

Ý nghĩa và giá trị cơ bản của Hiến pháp đầu tiên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhìn lại việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp thời kỳ đó cho thấy, trong điều kiện thù trong giặc ngoài chống phá khốc liệt, thế nước “nghìn cân treo sợi tóc” nhưng Trung ương Đảng, Quốc hội và Bác Hồ đã quan tâm đặc biệt tới việc xây dựng Hiến pháp. Kể từ khi Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp [ngày 20-9-1945] đến khi công bố dự thảo Hiến pháp trước toàn dân chỉ mất chưa đầy hai tháng. Và từ khi dự thảo công bố đến khi Quốc hội biểu quyết, thông qua cũng chỉ gói lại trong khoảng 1 năm.

Có thể nói, đây là bản Hiến pháp được xây dựng, thông qua với thời gian rất khẩn trương. Cần thấy rằng, như bản Hiến pháp 2013, chủ trương xây dựng và soạn thảo đã đưa ra từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII [năm 2011], đến cuối 2012 công bố lấy ý kiến nhân dân và cuối 2013 chính thức thông qua.

Trong khi đó, Hiến pháp 1946 phải xây dựng mới hoàn toàn, khi chính quyền cách mạng còn non trẻ nhưng chỉ trong một năm, bản Hiến pháp đã được xây dựng, thông qua với rất nhiều tư tưởng tiến bộ mang tầm thời đại. Nhà sử học Dương Trung Quốc đánh giá, Hiến pháp 1946 sau khi thông qua chưa kịp ban hành thì chiến tranh bùng nổ, cho nên có nhiều điều chưa đi vào đời sống. Tuy nhiên nó chứa đựng những tư tưởng, định hướng lớn để chúng ta có thể phát triển lâu dài.

Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều. Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Lời nói đầu đã xác định ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Đó là nguyên tắc đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản đã nói trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp 1946. Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều I của Hiến pháp viết: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.

Quá trình xây dựng, ra đời và giá trị của Hiến pháp đầu tiên

Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Các nhà nghiên cứu đánh giá, đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam Á, một nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam ra đời hình thức chính thể là cộng hoà.

Đó là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ, quy định trên đây cũng đề cao tính dân tộc của Nhà nước. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên do Bác Hồ khai sinh là Nhà nước độc lập của một dân tộc hơn 80 năm đấu tranh để giành lại chủ quyền cho đất nước, phá bỏ ách áp bức của thực dân và phế bỏ chế độ vua quan.

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, chúng ta không chỉ có sự tham gia của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức mà còn có sự tham gia của những người xuất thân từ tầng lớp địa chủ, tư sản nhưng yêu nước. Vì thế, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta là Nhà nước đoàn kết toàn dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.

Tuân thủ nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”, Hiến pháp có 7 chương thì chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo có quyền tự do, dân chủ. Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận [Điều 6, 7] và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, ứng cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.

Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng Hiến pháp năm 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền – “những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ”, thể hiện ở 5 điểm:

  • Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết [Điểu 70 Hiến pháp năm 1946].
  • Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo dảm thay vi được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
  • Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
  • Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.
  • Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các cơ quan khác không có quyền can thiệp.

Được đánh giá cao bởi nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia, Hiến pháp đầu tiên của nước ta có một vị trí, ý nghĩa lịch sử rất lớn. Đây là bản hiến pháp ghi nhận sự tồn tại của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định nước ta là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có luật pháp quy định riêng. Ngoài ra Hiến pháp còn ghi nhận quyền cơ bản nhất của công dân Việt Nam là những quyền cơ bản nhất của con người mà bao nhiêu năm qua nhân dân Việt Nam đã bị bọn thực dân đế quốc cướp mất.

Từ đó đến nay, tư tưởng của bản Hiến pháp năm 1946 đã được tiếp thu và kế thừa trong quá trình xây dựng các bản hiến pháp tiếp theo. Tuy nhiên giá trị lịch sử và ý nghĩa của bản Hiến pháp đầu tiên vẫn rất quan trọng. Nó là một trong những thành quả đáng tự hào của Chính phủ nước ta trong đó nổi bật là vai trò của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh trong những ngày đầu khó khăn của đất nước.

Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề:Quá trình xây dựng, ra đời và giá trị của Hiến pháp đầu tiên. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề