Dòng nào nói đúng về giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Vợ nhặt là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ đã "biết sống" như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt. Qua tác phẩm này, Kim Lân đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Mời các bạn cùng tham khảo các bài văn mẫu sau.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

  • Khái quát về nhà văn Kim Lân
  • Khái quát chung về truyện ngắn Vợ nhặt
  • Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
  • I. Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt
    • Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 1
    • Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 2
  • II. Văn mẫu Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 1
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 2
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 3
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu của Kim Lân mẫu 4
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 5
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 6
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 7
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 8
    • Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 9

VnDoc.com xin gửi tới bạn đọc Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết tổng hợp 10 mẫu bài phân tích. Bài viết cho thấy được niềm xót xa trước cuộc sống thê thảm của người dân nghèo, niềm khát vọng hạnh phúc khát vọng sống của con người... Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết tại đây.

Khái quát về nhà văn Kim Lân

1. Tiểu sử nhà văn Kim Lân

Kim Lân [1920 - 2007] tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Do hoàn cảnh khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn.

Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng [viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim].

Bút danh Kim Lân của ông được lấy từ tên của nhân vật Đổng Kim Lân trong Tuồng Sơn Hậu, một vai ông đã từng diễn.

Nǎm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Kim Lân

Trong cả hai giai đoạn sáng tác [trước và sau năm 1945], tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay.

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,…

Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật hà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa.

Khác với tư tưởng của các cây viết cùng đề tài, làng quê trong văn Kim Lân dẫu với các nhân vật nghèo vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa. Hình ảnh làng quê và người nông dân trong các tác phẩm của Kim Lân không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời và sáng ngời lên những phẩm chất đáng trân trọng và ngợi ca

Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng [tập truyện ngắn năm 1955], Con chó xấu xí [tập truyện ngắn năm 1962].

Khái quát chung về truyện ngắn Vợ nhặt

1. Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt

Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại [1954] Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với con người trong nạn đói.

2. Bố cục bài Vợ nhặt [4 phần]

Phần 1 [từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”]: cảnh Tràng dẫn vợ về nhà.

Phần 2 [tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”]: Lí giải việc Tràng nhặt được vợ.

Phần 3 [tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”]: Cuộc gặp gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới.

Phần 4 [còn lại]: Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng.

3. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ nhặt

Giá trị hiện thực: Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 và phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945. Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.

Giá trị nhân đạo: Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ, lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp đồng thời trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo và đưa ra dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.

Tóm tắt truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền trang trải qua ngày. Ở đây, qua vài câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành vợ chồng với nhau mà không cưới hỏi hay yêu đương gì. Cô thị theo không anh về làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị trêu, cô thị tỏ ra ngượng ngùng. Về đến nhà, cô khép nép khác thường. Khi bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là mẹ; vừa đau buồn, tủi hổ, xót thương vì con mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất không biết có qua nổi giai đoạn này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái khổ. Gạt đi những giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và lạc quan hơn trong cuộc sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, tươm tất. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói với ai câu nào. Cô thị kể những mẩu chuyện người đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhưng nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa hẹn sẽ tốt đẹp và no đủ hơn hiện tại.

I. Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt

Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim.

2. Thân bài

a. Khái quát về truyện ngắn Vợ nhặt

Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh. Ở đây, qua vài câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng lỏn đã trở thành vợ chồng. Cô thị theo không anh về làm vợ.

Khi bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là mẹ. Gạt đi những giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau và lạc quan hơn.

Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đổi hoàn toàn, sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp. Bữa ăn đầu tiên khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn trong nghẹn ngào, không ai nói với ai câu nào.

Cô thị kể những mẩu chuyện người đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá cờ của Đảng.

b. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt

Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói.

Tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người: Tràng dù nghèo nhưng vẫn cưu mang cô thị, chậc lưỡi cho qua cái đói khổ trước mắt, cô thị với sức sống mạnh mẽ gạt bỏ lòng tự tọng, tự tôn để theo Tràng và cuối cùng là bà cụ Tứ với tình thương con vô bờ bến, khao khát các con có được một cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.

Giá trị nhân đạo còn được thể hiện ở tình cảm mà tác giả dành cho nhân vật: dù đặt họ, miêu tả họ ở trong hoàn cảnh bần hàn như thế nhưng ông không khinh mạt, hạ thấp họ mà ngược lại, Kim Lân nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của những con người bình thường đó.

Tác phẩm khắc họa những vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc, chất phác nhưng cũng rất riêng biệt của con người: anh Tràng thô kệch nhưng tốt bụng hào phóng, cô thị đanh đá chỏng lỏn nhưng lại là một người vợ dịu dàng, chu đáo; bà cụ Tứ với một tình yêu thương con làm lay động lòng người.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề nghị luận và liên hệ bản thân.

Dàn ý Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 2

I. Mở bài

Giới thiệu chung về truyện ngắn "Vợ nhặt" và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

II. Thân bài

1. Nạn đói khủng khiếp năm 1945

*Trong truyện đã diễn tả với tất cả niềm xót thương thông cảm của tác giả về cảnh bi thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

a] Cái đói bao trùm khắp nơi và tràn đến cái xóm nghèo của dân ngụ cư.

Những gia đình từ Nam Định, Thái Bình lũ lượt đội chiếu, dắt díu bồng bế nhau lên, xám lại như những bóng ma. Buổi sáng nào cũng có vài người chết còng queo bên đường, toả mùi gây gây của xác chết.

Toàn bộ câu truyện của Tràng diễn ra trên cái cảnh đói khổ và tang tóc ấy. Cảnh xóm ngụ cư vào buổi chiều Tràng đưa người vợ theo về; tiếng hờ khóc trong đêm, mùi đốt đống rấm.

b] Tình cảnh của gia đình Tràng

Tràng: nghèo, không lấy nổi vợ.

Vợ Tràng: Vì đói mà phải theo không về làm vợ, không có cưới cheo gì.

Tình cảm xót xa của bữa cơm đón nàng dâu mới [nồi cháo loãng và bát cám].

2. Sự cưu mang, niềm hi vọng của người lao động nghèo khổ

Truyện đã làm sáng lên trên cái nền đen tối ảm đạm ấy sức sống, khát vọng : mái ấm gia đình và sự nương tựa, che chở cho nhau của những người lao động nghèo khổ, sáng lên niềm tin hy vọng của họ.

a] Tình huống Tràng có vợ, “nhặt” được vợ và ý nghĩa

Thái độ của Tràng từ lúc chỉ coi là chuyện tầm phào đến lúc xem đó là truyện nghiêm chỉnh của đời mình [Dẫn và phân tích những lời nói, hàng động của Tràng khi mới gặp người đàn bà và trong cảnh đưa chị ta về nhà].

b] Ánh sáng của hơi ấm hạnh phúc gia đình giữa lúc nạn đói hoành hành

Cảnh gia đình Tràng, căn nhà, mảnh vườn trong buổi sáng hôm sau.

Sự biến đổi trong tâm trạng của Tràng, của người vợ nhặt.

Ý nghĩa và thái độ của bà cụ Tứ, nỗi xót xa, thương cảm và niềm hy vọng của người mẹ.

Niềm hi vọng của họ về sự đổi thay số phận hướng về cuộc cách mạng.

3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm

Một tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống bền bỉ của họ.

Niềm tin của tác giả đặt vào những khát vọng bình dị mà chân chính những con người vẫn muốn sống, vẫn khát khao tình thương và sự gắn bó, việc nương tựa vào nhau đã cho họ niềm tin để sống.

Chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm dựa trên sự am hiểu sâu sắc, gắn với đời sống người nông dân của Kim Lân. Tác giả không tô vẽ, lí tưởng các nhân vật của mình.

III. Kết bài

Tóm tắt các ý chính trong hai đoạn A, B.

Mở rộng đến thời đại ngày nay

II. Văn mẫu Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 1

“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau năm 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” [1962]. Truyện “Vợ nhặt” có giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.

Trước hết tác phẩm bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói. Bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra ở một xóm ngụ cư, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà “chạng vạng”. Trên con đường và thứ ánh sáng leo lét ấy hiện lên vật vờ ủ rũ những bóng người đói “xanh xám như những bóng ma”. Người sống nằm ngổn ngang khắp lều chợ, ngay cạnh là những “cái thây nằm còng queo bên đường”. Trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”, văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, không buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Thứ hai, tác phẩm đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người, trước hết là Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải không biết “chợn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, kệ!”. Sau tiếng đó mọi sự đùa cợt lập tức khép lại nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề […], một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó hoang phí lắm “hai hào đấy, đắt quá”, “vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào”. Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.

Tiếp đó là ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người vợ nhặt. Thị chấp nhận bỏ qua ý thức về danh dự để theo không Tràng. Như vậy hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ lòng ham sống mãnh liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người nói đến hy vọng đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho kín đáo, truyện “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà”… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng” hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm ta còn thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.

Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn bên trong của Tràng đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo, Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất bình thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm của Tràng. Còn về người “vợ nhặt” thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thi hiện lên với một vẻ chao chát, chỏng lỏn. Trước câu hò của Tràng thị cong cớn nói “có khối cơm trắng mấy giò đấy”, lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói: “Điêu! Người thế mà điêu”…Nhưng người đàn bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay đổi, vẻ chao chát chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…. Còn về bà cụ Tứ, bà thương con hết mực, cảm thông cho tình cảnh của nàng dâu mới “có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà ân cần trong cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con.

Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phẩm đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 2

Năm 1945 đã trở thành dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi con người Việt Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của thắng lợi Việt Nam đánh đổ phát xít, thực dân và lật đổ chế độ phong kiến 1000 năm. Đưa nước ta trở thành một nước tự do dân chủ. Đó còn là giai đoạn ghi nhận những đau thương mất mát của dân tộc ta dưới họa xâm lăng. Sự bóc lột dã man tàn bạo của bọn phát xít thực dân và bọn phong kiến tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy nhà văn Kim Lân đã dựng lên một tình huống nhặt được vợ. Tình huống ấy vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện niềm cảm thông với nỗi đau khổ của con người, vừa bày tỏ niềm tin vào con người: “dù cuộc sống có đau khổ đến đâu, nhưng con người vẫn thể hiện niềm yêu thương đùm bọc lẫn nhau vẫn không nguôi về khát vọng hạnh phúc, vẫn hướng đến một tương lai tươi sáng”. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết ta phải hiểu giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học chân chính, nó được tạo nên bởi tình yêu thương của con người, niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp của con người hơn thế còn là lòng tin khả năng vươn dậy của nó.

Tác phẩm “Vợ nhặt” đã bộ lộ được niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát cú người dân nghèo trong nạn đói. Nạn đói được ví như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá dữ dội. Những dãy phố úp sụp tối om: “những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi ẩm mốc thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người” và đặc biệt hơn là âm thanh của tiếng quạ gào thê thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn đói, tác giả đã tố cáo được tội ác của bọn thực dân phát xít cùng bọn phong khiến tay sai. Chúng đã dồn người dân đến mức đường cùng của cuộc sống, làm cho bao người chết trong cảnh đói rách..

Tác phẩm còn đi sâu khám phá nâng niu trân trọng khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của con người. Tràng luôn khao khát hanh phúc, ẩn sau hình ảnh người đàn ông thô kệch chỉ biết làm lụng kia là con người cũng khao khát yêu thương. Trong hoàn cảnh kéo xe thóc mà anh vẫn buông lời trêu đùa để làm cho cuộc sống thêm tươi vui, anh đùa có ai đẩy xe cùng thì mời bữa cơm xôi giò. Tưởng chỉ là lời trêu đùa vui vơ mà có cô ra đẩy cùng, sau một hồi ăn 2 chập bánh đúc thì người đàn bà ấy theo về làm vợ. Anh cũng nghĩ đến cái đói đang khủng khiếp kia liệu mình có vượt qua được không mà còn thêm cô vợ, nhưng anh “chậc kệ”. Niềm khao khát hạnh phúc khiến anh vượt qua cái đói cái chết sắp tới. Trên đường về nhà khuôn mặt anh vui lạ thường. Thậm chí Kim Lân còn đẩy tình huống truyện đến đỉnh điểm khi miêu tả sự ngạc nhiên của Tràng. Bản thân anh cũng không ngờ rằng việc lên vợ lên chồng của mình lại dễ dàng đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng. Cho nên khi dẫn vợ về nhà, nhìn thất vợ giữa nhà Tràng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Đến bây giờ hắn còn ngờ ngợ không phải “ra hắn đã có vợ rồi đấy ư…”. Đến sáng hôm sau nhìn thấy ngôi nhà đã lâu nay đã được thu dọn sạch sẽ bởi bàn tay người vợ. Hắn không hết bàng hoàng ngạc nhiên việc hắn đã có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải. Điều đó còn được thể hiện ở ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ thể hiện ngay ở nhân vật người vợ nhặt. Chỉ có một câu tầm phơ tầm phào mà cô chấp nhận theo không người đàn ông xa lạ ấy để làm vợ, cô bỏ qua cả ý thức về danh dự và nhân phẩm của bản thân mình.

Không chỉ vậy mà Kim Lân còn đi sâu vào ý thức vun đắp cho cuộc sống gia đình của từng nhân vật. Với Tràng thì anh đã nhận ra được trách nhiệm và bổn phận của mình với hai người phụ nữ trong gia đình. Còn nhân vật thị thì thì hôm sau đã hoàn toàn thay đổi trở nên hiền hậu, đúng mực “nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ địa vẫn vắt khươm, mươi niên ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Đó là sự thay đổi ngỡ ngàng của thị và quang cảnh nhà sáng hôm sau. Còn bà cụ Tứ thì tạo thêm niềm tin cho các con về những dự định trong tương lai, việc nuôi gà, khuyên răn con ai giàu ba họ ai khó ba đời, có ăn lên làm ra thì con cái sau này mới sung sướng. Và cuối cùng có lẽ tình thương bà dành cho đứ con trai và con dâu được thể hiện rõ nhất ở hình ảnh bát cháo cám. Người mẹ già không có gì trong hoàn cảnh này, bà lật đật chạy xuống bếp với khuôn mặt vui tươi bê nồi cháo cám lên ăn.

Kim Lân đã thắp lên cho gia đình bà cụ Tứ niềm tin hy vọng vào sự đổi mới. Trong bóng tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết rằng việc lấy vợ lấy chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ Tứ vẫn vui vẻ chấp nhận “thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Kim Lân đã khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói ẩn chứa sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp đẽ của người Việt Nam: “dù có đắng cay cực khổ như thế nào vẫn mừng lòng đón nhận con người, luôn luôn trân trọng con người”. Vì vậy lúc nhìn lại người vợ nhặt bà không thấy cô ta xa lạ nữa mà đã trở thành người thân thuộc: “Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Trái tim người mẹ mở rộng đón nhận người phụ nữ xa lạ, đón nhận người ấy là con, là người thân, là con dâu. Bà còn nuôi dưỡng niềm tin hy vọng cho những đứa con: “Biết thế nào hả con? Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”. Bà an ủi con dâu: “Kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta chấp chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Câu nói tân tình và bao dung của người mẹ đã làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt. Chỉ một câu nói ấy thôi cũng đủ làm cho người phụ nữ Tràng nhặt về có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là một người vợ, một người con dâu. Kim Lân không đã thắp lên niềm tin bằng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong suy nghĩ của Tràng và hình ảnh người dân đi phá kho thóc của Nhật.

Nếu như trong tác phẩm “Chí Phèo”, “Lão Hạc” nhân vật chính muốn giữ được nhân phẩm thì phải chết, cái chết đau đớn nhưng làm lòng họ cảm thấy thanh thản hơn. Hay chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cùng quẫn bởi sưu cao thuế nặng phải bán sữa mình cho ông cụ già 80 tuổi và cái kết là chị chạy ra ngoài trời tối không biết sẽ ra sao…những tác phẩm viết trước cách mạng tháng 8 thường chưa tìm thấy lối thoát cho nhân vật của mình.

Không những vật Kim Lân đã thể hiện được niềm tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân hậu của con người. Nhân vật Tràng chỉ là một thanh niên làm thuê nuôi mẹ, nhưng sẵn sàng bỏ tiền cho người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Anh độ lượng, bao dung hào phóng và rất chu đáo với mẹ già. Anh sống luôn có tình nghĩa có trách nhiệm. Niềm tin ấy còn được thể hiện ở người vợ nhặt, sự biến đổi từ khi bước vào nhà. Nếu lúc trước người đàn bà này chua chát, chỏm lỏm thì giờ lại hiền hậu cư xử đúng mực lễ phép. Lúc mới gặp bà cụ Tứ thì chào hỏi, e thẹn. Sáng hôm sau thì đảm đang dọn dẹp nhà cửa. Đặc biệt trong bữa cơm sáng, mặc dù là bát cháo cám nhưng cô vẫn và vào miệng mặc dù mắt hơi nheo, bởi cô không lỡ làm mất đi niềm vui của người mẹ già khốn khổ kia. Có lẽ thể hiện sâu sắc niềm tin vào cuộc sống phải được thông qua bà cụ Tứ. Bà hết lòng yêu thương con cháu, hết mực cảm thông với nàng dâu trong hoàn cảnh này. Không những thế bà còn trăn trở những tháng ngày tiếp theo đứa con trai và con dâu bà sẽ sống ra sao. Những vượt lên hoàn cảnh ở trước mắt bà vẫn luôn tạo niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên răn.

Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những năm tháng này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công trong tác phẩm. Từ đó ta thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 3

Sáng tạo nghệ thuật là sản phẩm tinh thần riêng của cá nhân người nghệ sĩ. Có những tác phẩm đọc xong người ta quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ là mình đã đọc rồi. Cùng có những tác phẩm vừa mới ra đời được chào đón rầm rộ, sau đó người đọc lãng quên nhanh chóng. Bên cạnh đó, vẫn ngời lên những tác phẩm nghệ thuật đích thực, tựa như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm. "Vợ nhặt" của nhà vãn Kim Lân là một tác phẩm văn học như thế. Làm nên giá trị to lớn đó có nhiều lí do. Song một khía cạnh rất quan trọng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Nó bắt nguồn từ tấm lòng luôn biết yêu thương, trân trọng giá trị của con người ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Đọc tác phẩm "Vợ nhặt", tôi thường nhớ đến câu nói của M. Gorki: "Con người! hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và tự hào xiết bao". Phải chăng khi viết tác phẩm này thì Kim Lân – một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn, một người con đẻ của đất đai, đồng ruộng đang muốn nâng cao giá trị con người lên một tầm cao mới mẻ hơn.

"Vợ nhặt" được viết không lâu khi Cách mạng tháng Tám thành công. Nó có tiền thân từ truyện ngắn "Con chó xấu xí" trong tiểu thuyết "Xóm ngụ cư” nước cách mạng, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi bao sinh mạng con người Việt Nam. Nhưng cái phần cốt lõi của tác phẩm có lẽ không chỉ nói đến cái đói và cái xấu xí, thô nhám của con người. Cao hơn nữa là giá trị nhân đạo tuyệt vời. Không chỉ là nhân đạo yêu thương, bênh vực truyền thống để đi vào bế tắc, không lối thoát như văn học hiện thực.

"Vợ nhặt" của Kim Lân đã vượt qua những bờ cõi và giới hạn để trở thành giá trị nhân đạo cách mạng. Tố cáo về tội ác của bọn thực dân, phát xít là đòn bẩy để cái nhân đạo có cơ sở vững chắc hơn. Tiếp cận với tác phẩm ta bắt gặp Tràng, bà cụ Tứ, người vợ của Tràng, biết bao khi mặt u tôi, nhăn nhúm, méo mó vì cái đói đã tràn đến với sức hủy diệt đáng sợ. Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất.

Cuộc sống con người đến mức tối thiểu cũng không có được.

Cái đói đã được khắc họa đậm nét "tràn đến tự lúc nào". Sự sống cua những con người xóm ngụ cư trong đó có Tràng nhân vật đang ở mấp mé bờ vực thẳm.

Cõi dương lúc nào cũng lởn vởn hơi hướng của cái đói, tất cả đầy ám khí của cái chết.

Giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện khi Kim Lân đi sâu vào nhân vật Tràng. Quả đúng là trong cái túng đói quay quắt, con người ta vẫn hi vọng, lạc quan bởi lẽ "sự sống chẳng bao giờ là chán nản". Giữa nạn đói khủng khiếp Tràng lại là một kẻ xấu xí, một nhân dạng được hóa công gọt đẽo quá sơ sài.

Tràng dường như là nơi tập trung những cái thô kệch, xấu xí, khác xa những cái chải chuốt của xã Hội văn minh, "hai con mắt nhỏ tí", "cái lưng to như lưng gấu", chưa kể đến cái tính của Tràng đâu có được khôn ngoan như người ta và đặc biệt là cái tật hay nói lảm nhảm, tiếng cười hềnh hệch, chưa kể Tràng là dân ngụ cư – một thứ cỏ rác ở hương thôn thời bây giờ. Bản thân đã vậy, nay đói khát làm cho hắn khốn khổ hơn. Dựng lên một nhân vật như Tràng có lẽ dụng ý của Kim Lân không phải đưa ra để làm trò, lòng yêu thương cảm thông của nhà văn đã đưa đến sáng tạo bất ngờ. Tràng có vợ. Có lẽ nhiều người sẽ ngạc nhiên lắm giữa thời buổi đói kém, thân mình còn chẳng lo được nói gì đến chuyện đèo bòng "ốc còn chẳng mang nổi mình ốc", cái triết lí đó chắc chắn sẽ được đem ra đối chiếu. Hơn nữa với một anh chàng xâu xí, có thể gọi là ế vợ, lại có vợ một cách hiển hách cứ như anh ta đào hoa tốt số lắm. Nhưng không! Đây không phải là một trò đùa nào đó. Người vợ mà Tràng "nhặt" được kia cũng là một số phận chẳng khác gì Tràng trên đường đời đầy khó khăn. Thị cũng vì quá đói, chỉ bốn bát bánh đúc cũng đủ làm Thị sáng mắt lên và theo Tràng về nhà thành chồng vợ. Bốn bát bánh đúc thật thảm hại trong ngày đói cũng đủ xe duyên cho một mối tình. Bảo rằng họ có tình yêu nào đó trước hôn nhân thì e chua chát quá. Dựng lên một tình thế quá éo le như thế là nhà văn đã đánh cuộc với cái đói, với số phận và lòng nhân đạo sâu xa đã tiếp cho nhà văn thêm sức mạnh, để ông đủ đúc tin vào con người. Cái đói cũng không thể diệt trừ sự sống và trong sự hủy diệt đó sự sống càng trở nên lung linh hơn.

Khát vọng về một tình yêu, một mái ấm gia đình có lẽ vẫn tồn tại trong mọi người, kể cả Tràng. Nó có sức mạnh hoàn cải mạnh mẽ, chẳng thế mà qua tác phẩm ta thấy cảm giác sung sướng của Tràng khi đi với cô vợ về nhà, một cảm giác vui sướng lâng lâng "tựa họ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Tôi rất xúc động trước những lời văn này của Kim Lân. Phải có một tài năng thiên bẩm và cao hơn là lòng nhân đạo thì ông mới làm cho người đọc trào nước mắt. Hạnh phúc của con người hóa ra bình dị đến thế. Đoạn văn Kim Lân tả cảnh Tràng sau đêm tân hôn thật tuyệt vời, "Trong phút chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Đặc biệt tiếng quét sân của vợ hắn sàn sạt nghe sao mà dễ thương đến thế. Đó là âm thanh cuộc sống, hạnh phúc gia đình. Người vợ quét dọn, mẹ dẫy cỏ, Tràng cũng muốn làm cái gì đó để làm cho căn nhà sáng sủa hơn. Dường như mọi người đều nghĩ thu dọn cho tươm tất thì cuộc sống có lẽ sẽ tốt đẹp hơn. Bữa cơm ngày đói thật thảm hại nhưng ai cũng thấy ngon. Phải chăng mỗi thành viên đang cảm nhận về cuộc sống gia đình, về tương lai theo những cách khác nhau. Song ai cũng hi vọng về cuộc sống sẽ khá giả hơn. Đọc tác phẩm, người dọc rất trân trọng bà cụ Tứ. Người mẹ khốn khổ ấy thật tiêu biểu cho những người mẹ Việt Nam. Niềm tủi thân cho con trai, cho chính bản thân mình và cho cả đứa con gái [cái Đục] xấu số cũng không thể ngăn cản bà chia sẻ hạnh phúc với con trai dẫu biết rằng "chao ôi người ta cưới vợ gả chồng cho con lúc ăn nên làm ra những mong có con đàn cháu đống" còn con mình lúc đói kém mới có được vợ… Lòng người mẹ nghèo ấy biết bao là xót xa, đau đớn. Nhưng thương con trai, bà thương cả con dâu “Chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng". Song biết có qua nổi cái thì đói này không. Những giọt nước mắt mà bà cố giấu như chứa vị đắng cay pha lẫn sung sướng. Nhất là dù hiện tại đáng buồn, bà cụ Tứ vẫn rất lạc quan "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời". Những tính toán của bà cụ thực xúc động. Bà cụ đã chủ động vẽ ra trước mắt các con một tương lai tươi sáng. Không ai ngờ một người mẹ sắp gần đất xa trời rồi mà vẫn giữ một niềm tin sắt đá. Và niềm tin đó không phải là không có cơ sở. Hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Pháp – Nhật và hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng đã đưa tác phẩm ra khỏi phạm trù của văn học hiện thực. Lòng nhân đạo của Kim Lân không đi vào bế tắc. Nhà văn không đưa ra vấn đề và để đấy, không đặt nhân vật vào hoàn cảnh éo le không lối thoát. Một ánh hồng sáng tươi sẽ có sức giải thoát cuộc đời họ. Đó là cách mạng. Và do đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm tỏa sáng một ý nghĩa mới – Nếu như Nam Cao vẫn được mệnh danh là nhà nhân đạo chủ nghĩa, nhà văn tầm nhân loại vì những tác phẩm "Chí Phèo", "Đời thừa", thì đọc tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân, ngoài việc ông đã nêu lên bể khổ của cuộc sống con người như truyền thống, ông đã vượt qua giới hạn của thời là trước.

Đọc tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân chúng ta cũng cần biết thêm giá trị nhân đạo tuyệt vời trong "Vợ nhặt" không chỉ bởi tài năng, thiên bẩm của nhà văn. Kim Lân cùng với người vợ của mình đã từng ăn cháo cám, đã từng sống lay lắt, khổ sở. Như vậy vốn sống và cao hơn là niềm cảm thông sâu sắc, niềm tin tưởng vào hạnh phúc con người vào tương lai. Có lẽ sẽ không quá nếu ta gọi ông là nhà nhân đạo chủ nghĩa?

Giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt" làm người ta nhớ mãi. Nhớ để hiểu rằng sự sống chẳng bao giờ là chán nản. Để có được cuộc sống tốt đẹp hơn thì cần có một niềm tin. Khao khát hạnh phúc gia đình vốn đã trở nên vĩnh cửu với tất cả mọi người trên trái đất bất kể họ là ai? Là Tràng rồi Chí Phèo v.v… ngay trong hoàn cảnh bi đát nhất.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu của Kim Lân mẫu 4

Nạn đói năm 1945 đã trở thành những ngày tháng tăm tối nhất của lịch sử Việt Nam. Từ Trung Kì đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Giữa những ngày tăm tối ấy, "vợ nhặt" của Kim Lân như thổi làn gió mát, đem hi vọng vào tương lai tươi sáng cho người đọc bằng giá trị nhân đạo sâu sắc.

Giá trị nhân đạo nổi bật nhất chính là sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa người với người trong hoàn cảnh tăm tối bên bờ vực của cái chết. Hoàn cảnh tang thương lúc bấy giờ được Kim Lân miêu tả rất chi tiết. Người "xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người".

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, anh cu Tràng có vợ. Đây cũng là một giá trị nhân đạo của tác phẩm. Anh cu Tràng là một người nghèo, xấu trai lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm. Anh là người hội tụ đầy đủ yếu tố ế vợ. Nhưng ngòi bút nhân đạo của Kim Lân đã không để cho anh một mình. Nhà văn đã cho anh có một người vợ một cách dễ dàng. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào, anh có vợ. Tràng và Thị đã làm cho người dân xóm ngụ cư dường như tươi mới thêm. "Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên". Tràng và Thị như chiếc đèn le lói hi vọng cho mọi người vào tương lai. Điểm nhấn giữa Tràng và Thị chính là khoảnh khắc Thị nhìn thấy ngôi nhà"vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Thị đã biết tình cảnh không khác gì mình của Tràng. Nhưng Thị không chạy trốn. Nếu lúc trước, Thị trốn cái đói cái khát để theo không Tràng về làm vợ thì giờ đây Thị đã không chạy trốn. Hay Tràng dù lúc đầu cũng "chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng" . Nhưng sau cái chậc kệ, anh đã đưa Thị về nhà. Chính cái khát vọng hạnh phúc, khát vọng có một tổ ấm đã làm tăng tính nhân đạo cho tác phẩm. Mặc dù đang sống liền kề bên bờ vực của cái chết nhưng họ vẫn không muốn chết mà vẫn muốn sống hạnh phúc.

Câu chuyện gợi ý tương lai của bà cụ Tứ cũng thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trong lúc dặn dò con chuyện làm ăn. Bà vẽ ra khung cảnh tương lai tươi đẹp trước mắt các con. "Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Rồi trong bữa cơm đầu có dâu, bà lại vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này". "Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…". Những hi vọng đẹp đẽ về tương lai đã chút nào đó làm bừng sáng cả căn nhà của Tràng. "Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế". Bà cụ Tứ còn đối xử với con dâu rất tốt. Bà thương con dâu: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Bà hạ giọng xuống thân mật: "chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…"

Vốn sinh ra từ một miền quê, Kim Lân rất hiểu đời sống của người dân. Viết "Vợ nhặt", tác giả đã đặt nhân vật của mình vào tình huống độc đáo, oái oăm, bi hài, nhân vật đã cảm thông, chia sẻ đồng điệu cùng nhân vật để cất lên bài ca nhân bản mạnh mẽ thiết tha về khát vọng cuộc đời. Con người dù có nghèo khổ đến đâu họ vẫn có quyền mơ ước một mái ấm gia đình hạnh phúc. Có lẽ truyện hấp dẫn người đọc qua nhiều thế hệ nhờ vào giá trị nhân đạo sâu sắc ấy.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 5

Năm 1945 đã trở thành dấu ấn lịch sử không thể phai mờ đối với mỗi con người Việt Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của thắng lợi Việt Nam đánh đổ phát xít, thực dân và lật đổ chế độ phong kiến 1000 năm. Đưa nước ta trở thành một nước tự do dân chủ. Đó còn là giai đoạn ghi nhận những đau thương mất mát của dân tộc ta dưới họa xâm lăng. Sự bóc lột dã man tàn bạo của bọn phát xít thực dân và bọn phong kiến tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trong hoàn cảnh ấy nhà văn Kim Lân đã dựng lên một tình huống nhặt được vợ. Tình huống ấy vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện niềm cảm thông với nỗi đau khổ của con người, vừa bày tỏ niềm tin vào con người: ”dù cuộc sống có đau khổ đến đâu, nhưng con người vẫn thể hiện niềm yêu thương đùm bọc lẫn nhau vẫn không nguôi về khát vọng hạnh phúc, vẫn hướng đến một tương lai tươi sáng”. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trước hết ta phải hiểu giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản trong tác phẩm văn học chân chính, nó được tạo nên bởi tình yêu thương của con người, niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp của con người hơn thế còn là lòng tin khả năng vươn dậy của nó.

Tác phẩm “Vợ nhặt” đã bộc lộ được niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói. Nạn đói được ví như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá dữ dội. Những dãy phố úp sụp tối om: "những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi ẩm mốc thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người” và đặc biệt hơn là âm thanh của tiếng quạ gào thê thiết. Bằng những hình ảnh đau thương của nạn đói, tác giả đã tố cáo được tội ác của bọn thực dân phát xít cùng bọn phong kiến tay sai. Chúng đã dồn người dân đến mức đường cùng của cuộc sống, làm cho bao người chết trong cảnh đói rách.

Tác phẩm còn đi sâu khám phá nâng niu trân trọng khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của con người. Tràng luôn khao khát hanh phúc, ẩn sau hình ảnh người đàn ông thô kệch chỉ biết làm lụng kia là con người cũng khao khát yêu thương. Trong hoàn cảnh kéo xe thóc mà anh vẫn buông lời trêu đùa để làm cho cuộc sống thêm tươi vui, anh đùa có ai đẩy xe cùng thì mời bữa cơm xôi giò. Tưởng chỉ là lời trêu đùa vu vơ mà có cô ra đẩy cùng, sau một hồi ăn hai chập bánh đúc thì người đàn bà ấy theo về làm vợ. Anh cũng nghĩ đến cái đói đang khủng khiếp kia liệu mình có vượt qua được không mà còn thêm cô vợ, nhưng anh “chậc kệ”. Niềm khao khát hạnh phúc khiến anh vượt qua cái đói cái chết sắp tới. Trên đường về nhà khuôn mặt anh vui lạ thường. Thậm chí Kim Lân còn đẩy tình huống truyện đến đỉnh điểm khi miêu tả sự ngạc nhiên của Tràng. Bản thân anh cũng không ngờ rằng việc lấy vợ của mình lại dễ dàng đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng. Cho nên khi dẫn vợ về nhà, nhìn thấy vợ giữa nhà Tràng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Đến bây giờ hắn còn ngờ ngợ không phải ”ra hắn đã có vợ rồi đấy ư…”. Đến sáng hôm sau nhìn thấy ngôi nhà lâu nay đã được thu dọn sạch sẽ bởi bàn tay người vợ. Hắn không hết bàng hoàng ngạc nhiên việc hắn đã có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải. Điều đó còn được thể hiện ở ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ thể hiện ngay ở nhân vật người vợ nhặt. Chỉ có một câu tầm phơ tầm phào mà cô chấp nhận theo không người đàn ông xa lạ ấy để làm vợ, cô bỏ qua cả ý thức về danh dự và nhân phẩm của bản thân mình.

Không chỉ vậy mà Kim Lân còn đi sâu vào ý thức vun đắp cho cuộc sống gia đình của từng nhân vật. Với Tràng thì anh đã nhận ra được trách nhiệm và bổn phận của mình với hai người phụ nữ trong gia đình. Còn nhân vật thị thì hôm sau đã hoàn toàn thay đổi trở nên hiền hậu, đúng mực “nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu gọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm, mươi niên ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Đó là sự thay đổi ngỡ ngàng của thị và quang cảnh nhà sáng hôm sau. Còn bà cụ Tứ thì tạo thêm niềm tin cho các con về những dự định trong tương lai, việc nuôi gà, khuyên răn con ai giàu ba họ ai khó ba đời, có ăn lên làm ra thì con cái sau này mới sung sướng. Và cuối cùng có lẽ tình thương bà dành cho đứa con trai và con dâu được thể hiện rõ nhất ở hình ảnh bát cháo cám. Người mẹ già không có gì trong hoàn cảnh này, bà lật đật chạy xuống bếp với khuôn mặt vui tươi bê nồi cháo cám lên ăn.

Kim Lân đã thắp lên cho gia đình bà cụ Tứ niềm tin hy vọng vào sự đổi mới. Trong bóng tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết rằng việc lấy vợ lấy chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ Tứ vẫn vui vẻ chấp nhận “thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Kim Lân đã khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói ẩn chứa sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp đẽ của người Việt Nam: ”dù có đắng cay cực khổ như thế nào vẫn mừng lòng đón nhận con người, luôn luôn trân trọng con người”. Vì vậy lúc nhìn lại người vợ nhặt bà không thấy cô ta xa lạ nữa mà đã trở thành người thân thuộc: "bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Trái tim người mẹ mở rộng đón nhận người phụ nữ xa lạ, đón nhận người ấy là con, là người thân, là con dâu. Bà còn nuôi dưỡng niềm tin hy vọng cho những đứa con: "biết thế nào hả con? Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”. Bà an ủi con dâu: "kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta chấp chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Câu nói tận tình và bao dung của người mẹ đã làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt. Chỉ một câu nói ấy thôi cũng đủ làm cho người phụ nữ Tràng nhặt về có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là một người vợ, một người con dâu.

Nếu như trong tác phẩm “Chí Phèo”,”Lão Hạc” nhân vật chính muốn giữ được nhân phẩm thì phải chết, cái chết đau đớn nhưng làm lòng họ cảm thấy thanh thản hơn. Hay chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cùng quẫn bởi sưu cao thuế nặng phải bán sữa mình cho ông cụ già 80 tuổi và cái kết là chị chạy ra ngoài trời tối không biết sẽ ra sao…những tác phẩm viết trước cách mạng tháng 8 thường chưa tìm thấy lối thoát cho nhân vật của mình.

Không những vậy Kim Lân đã thể hiện được niềm tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân hậu của con người. Nhân vật Tràng chỉ là một thanh niên làm thuê nuôi mẹ, nhưng sẵn sàng bỏ tiền cho người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc. Anh độ lượng, bao dung hào phóng và rất chu đáo với mẹ già. Anh sống luôn có tình nghĩa có trách nhiệm. Niềm tin ấy còn được thể hiện ở người vợ nhặt, sự biến đổi từ khi bước vào nhà. Nếu lúc trước người đàn bà này chua chát, chỏm lỏm thì giờ lại hiền hậu cư xử đúng mực lễ phép. Lúc mới gặp bà cụ Tứ thì chào hỏi, e thẹn. Sáng hôm sau thì đảm đang dọn dẹp nhà cửa. Đặc biệt trong bữa cơm sáng, mặc dù là bát cháo cám nhưng cô vẫn và vào miệng mặc dù mắt hơi nheo, bởi cô không lỡ làm mất đi niềm vui của người mẹ già khốn khổ kia. Có lẽ thể hiện sâu sắc niềm tin vào cuộc sống phải được thông qua bà cụ Tứ. Bà hết lòng yêu thương con cháu, hết mực cảm thông với nàng dâu trong hoàn cảnh này. Không những thế bà còn trăn trở những tháng ngày tiếp theo đứa con trai và con dâu bà sẽ sống ra sao. Nhưng vượt lên hoàn cảnh ở trước mắt bà vẫn luôn tạo niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên răn.

Bằng cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau cách mạng tháng Tám, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết đầy bi thương của những năm tháng này. Qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công trong tác phẩm. Từ đó ta thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đó.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 6

Tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc thông qua tình huống truyện độc đáo đó chính là tình huống nhặt được vợ. Tác giả cho chúng ta thấy cuộc sống tối tăm của người dân lao động trong nạn đói lịch sử năm 1945 và những khát khao mãnh liệt của họ. Giá trị nhân đạo là một giá trị tạo nên thành công của tác phẩm văn học chân chính. Nó tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của tác giả với những nhân vật của mình. Những người nông dân khốn khổ, bần hàn trong cuộc sống.

Tác phẩm bộc lộ rõ những cảm xúc xót xa đối với kiếp người thê thảm trong nạn đói lịch sử làm chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói này làm cho dân ta khốn khổ. Câu chuyện được viết trong một xóm ngụ cư, toàn những người dân tứ xứ về ở chung tập hợp thành một xóm ngụ cư mới, trong sự nghèo khổ đến tận cùng của cảnh vật xung quanh và những nếp nhà lụp sụp. Trên con đường về xóm ngụ cư ấy ánh sáng hiện lên vô cùng mờ mịt, leo lét những con người đi lại như những bóng ma. Xác người chết chưa kịp chôn cất nằm ngổn ngang, bên cạnh những người sống vật vờ không có nơi cư trú, mùi xác thối bốc lên, rồi từng bầy quạ đến cứ gào lên thê thiết. Bên cạnh đó văng vẳng là tiếng trống thúc thuế, những đứa trẻ thì ngồi trong những xó đường không buồn nhúc nhích bởi chúng quá đói và mệt mỏi nên không còn sức lực để vui đùa chạy nhảy nữa.

Trong bối cảnh nghèo đói ấy một người xấu xí như nhân vật Tràng, hai con mắt ti hí, quai hàm bạnh ra, đường nét thô kệch làm nghề kéo xe thuê, nghèo khó sống cảnh mẹ góa con côi lại nhặt được vợ. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn còn thể hiện trong lòng tin sâu sắc vào việc những nhân vật trong tác phẩm tin tưởng vào tương lai, sự đổi đời. Nhân vật anh cu Tràng tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng tiềm ẩn bên trong là sự cảm thông biết thương yêu người khác, che chở giúp đỡ người khác trong cảnh khốn khổ.

Trong hoàn cảnh nghèo khó nhưng Tràng vẫn hào phóng đãi thị bốn bát bánh đúc, rồi lần sau gặp Tràng cũng quan sát người phụ nữ này dường như thị gầy hơn, cái áo rách tả tơi cắp cái thúng con. Có lẽ từ giây phút đó Tràng đã nổi lên sự trắc ẩn trong lòng, muốn cho người phụ nữ kia nương tựa vào mình cả hai cùng nương tựa vào nhau, để cố gắng qua cơn đói khổ này. Đó chính là sự nhân đạo trong con người Tràng. Trong khi nạn đói đang hoành hành, người chết như ngả rạ, thêm một người là thêm một miệng ăn, nhưng Tràng vẫn sẵn sàng cưu mang thị, đưa thị về nhà cùng chung sống.

Bà cụ Tứ mẹ của anh cu Tràng cũng là người có tấm lòng nhân văn, nhân đạo. Bà thương yêu con hết mực. Bà cụ Tứ xuất hiện với dáng người đã già cả lưng còng, mắt kèm nhèm, nhìn từ xa bà thấy trong nhà mình có một người phụ nữ bà tưởng mình trông gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần tới nhà thấy người phụ nữ kia chào mình bằng u, rồi nghe anh cu Tràng giới thiệu "Đây là nhà con" thì bà cụ Tứ không còn nghi ngờ gì nữa. Bà thoáng chút thương xót cho số phận của mình và con trai, người ta cưới vợ trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì cưới nhau trong lúc nghèo đói, túng quẫn. Nhưng rồi bà lại vui vẻ chấp nhận bà nghĩ rất tích cực "Có gặp hoàn cảnh khốn khó như lúc này thì người ta mới lấy tới con mình, mà con mình mới có vợ". Bà cụ Tứ nhìn mọi chuyện vô cùng thấu đáo tích cực. Bà thấy nhiều niềm vui hơn là nỗi buồn trong việc anh cu Tràng nhặt được vợ trong thời kỳ đói khổ.

Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo không khí vui vẻ cho gia đình để con trai và con dâu của bà vui vẻ mà cố gắng phấn đấu vượt qua thời kỳ đói khổ này. Người mẹ già khốn khổ ấy luôn miệng động viên con trai con dâu của mình. Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, chăm chỉ làm ăn biết đâu nhờ trời thương lại cho khấm khá. Sáng hôm sau, gia đình anh cu Tràng từ khi lấy vợ đã thay đổi hẳn nhà cửa gọn gàng, vườn tược được nhổ sạch cỏ, mọi thứ thật sự là một gia đình dù còn nhiều đơn sơ nghèo khó. Nhưng nó vẫn thể hiện đó là một gia đình, đầm ấm sum vầy. Trong bữa cơm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc vô cùng, nhưng trong mâm cơm đạm bạc nghèo khổ ấy ai cũng nói tới tương lai, nói tới chuyện vui. Họ cùng nhau hy vọng vào cuộc sống mới.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm làm nên niềm tin cho những con người lao động nghèo khổ, khốn khó.. Nó chính là bản năng sống, khát khao được hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân, nhân vật của mình.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 7

"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường. Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện. Truyện "Vợ nhặt" đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán.

Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã".

Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".

Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết. Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng".

Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá...". Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".

Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!

Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! Cổ kim đông tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt mẫu 8

Vợ nhặt được coi là một trong những sáng tác tiêu biểu tạo nên tên tuổi của Kim Lân. Bằng những ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện hết sức chân thật, câu chuyện đã thể hiện sự cảm thông của tác giả với những con người đang bị rơi vào bước đường cùng của cuộc sống nhưng có khát vọng sống và khao khát hạnh phúc đến mãnh liệt. Chính tinh thần đó của tác giả đã làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Năm Ất Dậu 1945 được ghi vào lịch sử của nước nhà với sự khủng khiếp của nạn đói. Người dân khắp nơi đều chịu cảnh đói quay quắt ấy, người chết đói la liệt, người sống thì xanh xám, dật dờ như những bóng ma. Mẹ con cu Tràng cũng đang chịu cảnh đói cũng với bao người khác trong làng quê nghèo nàn ấy. Gia cảnh của Tràng được hiện lên qua ngòi bút miêu tả của nhà văn thật đáng thương. Căn nhà thì rúm ró trên cái vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Người phụ nữ cùng đường đã bám lấy Tràng mong có sự thay đổi trong cuộc đời đã nhận ra sự khốn khó của gia đình ấy và nén một tiếng thở dài. Tất cả những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm đều rất đáng thương. Tất cả mọi người đang chịu sự đày đọa khủng khiếp của cái đói, họ đang sống giống như một cái xác không hồn. Biết rằng rất đói, nhưng không có cách nào để chống lại cái đói.

Đang lúc khốn khó đến cùng quẫn, được người đàn ông rước về làm vợ, người phụ nữ đáng thương ấy những tưởng sẽ có được một cuộc sống tốt hơn. Khi về đến cổng nhà Tràng thì niềm hi vọng của thi chợt tắt. Chuyện lấy vợ là việc quan trọng của cả đời người thế mà giờ đây có thể nhặt được, nghe mà xót xa và thương cảm cho người phụ nữa ấy. Chuyện lấy chồng của thị nghe có vẻ nực cười, nực cười trong xót xa, không có lễ cưới, không có câu trầu. Ngày mới về làm dâu thị chỉ được ăn nồi cháo cám và nghe tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Nhưng bữa cơm đó cũng rất ấm cúng, chan chứa tình người, niềm hạnh phúc của từng nhân vật được hiện lên trên khuôn mặt và ánh mắt u buồn của họ.

Trong sự nghèo khó đến cùng quẫn, than mình chưa lo xong mà Tràng lại còn đòi lấy vợ. Cách cư xử của bà cụ Tứ với nàng dâu mới khiến người đọc thật xúc động. Nếu với những bà mẹ bình thường khác, bà sẽ phản đối kịch liệt chuyện hai người. Nhưng bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Bà đã có những lời nói chất chứa biết bao tình thương đối với đứa con dâu tội nghiệp của mình. Xây dựng hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, tác giả đã tạo nên cho câu chuyện một ý nghĩa nhân văn thật cao cả. Chính tấm lòng của bà cụ đã tạo ra hi vọng cho con cháu về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, cuộc sống và tâm trạng của mọi người đã có sự thay đổi rõ rệt. Việc Tràng có vợ, không chỉ là niềm vui của gia đình cu Tràng mà cả xóm chợ, bà cụ Tứ như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Niềm vui đã đến với mọi người vào cái lúc đói khổ nhất, xóa tan đi cái u ám đang bao trùm khắp xóm làng. Bà cụ Tứ, nàng dâu và cu Tràng đều dậy sớm, dọn dẹp và chuẩn vị cho một ngày mới, với hi vọng sẽ tốt đẹp hơn. Đó là khát vọng về hạnh phúc, về cuộc sống đáng trân trọng của con người.

Giá trị nhân đạo của truyện còn nằm ở cuối truyện, đó là hình ảnh vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Đó là tín hiệu tốt cho cuộc sống ngày mai, đó là sự thắng lợi của cách mạng, sự bùng lên đấu tranh của những con người như vợ chổng Tràng, đem lại sự ấm no hạnh phúc cho muôn dân.

Thông qua việc miêu tả niềm vui khi có được vợ trong hoàn cảnh hết sức khó khăn của những người nông dân nghèo, tác phẩm đã thể hiện được giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã có sự thấu hiểu và thông cảm cho số phận những người nông dân nghèo một cách sâu sắc, tác giả mới có thể phát hiện được niềm vui nở trên khuôn mặt những con người khắc khổ ấy khi được tận hưởng thứ hạnh phúc đơn sơ giản dị đời thường.

Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 9

Kim Lân là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam. Trong các sáng tác của ông, người ta có thể tìm thấy giá trị hiện thực đậm nét, những lời tố cáo đanh thép nhưng có lẽ giá trị lớn nhất, cao nhất là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng chất thơ của hồn người. Ánh sáng tình người toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và cảm động. Giá trị nhân đạo xuyên suốt các tác phẩm của Kim Lân và có thể nhận thấy rõ nhất trong truyện ngắn “Vợ nhặt” . Kim Lân khi nói về tác phẩm này đã cho biết: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính thể hiện ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau. Song nhìn chung, giá trị nhân đạo trong văn chương bắt nguồn từ thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, sự đồng cảm với những đau khổ cũng như ngợi ca, đề cao những khát vọng của con người, bên cạnh đó cũng là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực áp bức, bóc lột người lao động. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn mang đậm giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc bởi sự xót thương của Kim Lân giành cho những số phận bất hạnh, sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cũng như niềm khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những con người dưới đáy xã hội.

Đến với “Vợ nhặt”, có lẽ ấn tượng đầu tiên, ngay lập tức tác động đến độc giả là cảnh ngộ, số phận bi thảm của con người trong nạn đói. Kim Lân đã viết về cái đói bằng cả trái tim yêu thương, xót xa giành cho những kiếp người nhỏ bé, đáng thương mà nổi bật lên là các nhân vật bà cụ Tứ, anh cu Tràng và người vợ nhặt. Cả ba nhân vật đều là nạn nhân của cơn bão táp đói khát khủng khiếp, họ bị quăng quật, vùi dập đến biến dạng nhân hình và nhân tính.

Nhân vật Tràng là một người nông dân nghèo sống cùng mẹ già ở xóm ngụ cư – thời đó xóm ngụ cư bị xem là xóm của nhưng kẻ ăn nhờ ở đậu và rất bị coi thường. Anh ở trong một túp lều xiêu vẹo trên một mảnh vườn mọc toàn cỏ dại và mưu sinh bằng việc đẩy xe bò thuê. Tràng còn là một thanh niên xấu xí được miêu tả với hai con mắt nhỏ tí, lúc nào cũng gà gà đăm đắm như nhìn vào bóng chiều, thân hình to lớn, vập vạp, thô kệch, cái lưng thì rộng như lưng gấu, cái đầu trọc nhẵn… Không những thế, Tràng còn có cái tật vừa đi vừa nói lảm nhảm, than thở điều anh ta nghĩ. Điều này cho chúng ta thấy Tràng còn là một người ngờ nghệch và ngốc nghếch, thậm chí có phần dở hơi nữa. Nhân vật Tràng, dưới ngòi bút của Kim Lân, giống như một sản phẩm lỗi của tạo hóa… Đến đây Kim Lân hoàn toàn cho ta thấy anh cu Tràng là một trong những con người nghèo khổ và thuộc lớp người đáy cùng của xã hội thời bấy giờ.

Bà cụ Tứ, mẹ Tràng là người phụ nữ cao tuổi, khuôn mặt bủng beo, u ám, mắt kèm nhèm, bước đi lọng khọng. Lẽ ra ở cái tuổi gần đất xa trời ấy bà lão phải được hưởng hạnh phúc an nhàn bên con cháu. Thế nhưng, nạn đói có trừ ai. Bà vẫn phải còng lưng mang gánh mưu sinh, lo từng bữa rau bữa cháo. Hơn thế nữa, bà cụ luôn bị dằn vặt vì giữa năm đói khát, bà không làm tròn trách nhiệm của người mẹ, không lo được đầy đủ cho con, để con phải lấy vợ theo cái cách đầy mỉa mai, chua chát – nhặt vợ. Cả thể xác lẫn tâm hồn người mẹ nghèo đều vì cái đói mà trở nên mòn mỏi, đau xót.

Đói, ai cũng khổ. Giọt nước mắt xót thương của Kim Lân là giành cho tất cả những con người của năm đói. Nhưng có lẽ, đến nhân vật người vợ nhặt chúng ta mới thấy hết sức tàn phá khủng khiếp của nạn đói đến nhân hình, nhân tính con người. Ở nhân vật này, cái đói hiện hình “trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp hẳn đi”. Không những thế, cái đói cũng làm thị quên hết sự ý nhị, duyên dáng của người phụ nữ. Thị chao chát, trỏng lỏn và vô duyên. Thậm chí, chỉ dựa vào vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc của Tràng, thị sẵn sàng theo không về làm vợ người. Nhưng, dưới ngòi bút Kim Lân, thị đáng thương nhiều hơn đáng trách. Nếu không bởi cái đói, cái chết dồn ép đến bước đường cùng, làm sao thị phải bán đi tự trọng, bán đi nhân phẩm mình một cách rẻ rúng, vô sỉ như thế?

Bên cạnh tình cảm xót thương, đồng cảm cho số phận của những con người khốn cùng trong nạn đói, giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” còn được thể hiện qua thái độ trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là lòng nhân ái, tình yêu thương giữa những người cùng khổ.

Đầu tiên là nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thuê, thấy người đàn bà đói thì Tràng cho ăn, dù anh ta chẳng có dư giả gì. Trong nạn đói miếng ăn là cả vấn đề sinh mạng nên hành động có vẻ ngẫu hứng đó của Tràng là một nghĩa cử cao đẹp. Sau đó, chỉ bằng vài câu nói đùa, người đàn bà theo về làm vợ, Tràng cũng chấp nhận dù anh ta cũng hơi sợ. Tâm tư, tình cảm của Tràng đặt trong tình cảnh này thật đáng quý, đáng trân trọng. Tấm lòng cao quý của con người còn được thể hiện qua nhân vật bà cụ Tứ. Việc Tràng lấy vợ làm bà ngạc nhiên đến sững sờ, nhưng nghĩ lại bà hiểu ra biết bao cơ sự. Bà thương cho số kiếp nghèo, bèo bọt, thua thiệt của con trai vì nghèo không ai lấy nên mới phải nhặt vợ. Bà dằn vặt vì không tròn bổn phận làm cha, làm mẹ để con rơi vào hoàn cảnh chua xót.

Thương con bao nhiêu, bà cụ thương người bấy nhiêu. Bà nhìn người đàn bà xa lạ với ánh mắt ái ngại, cảm thông và ý nghĩ xuất phát từ tấm lòng bao dung, nhân hậu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” Thế nên bà cụ sẵn sàng cưu mang, chấp nhận nàng dâu mới. Còn người vợ nhặt, dù bị nạn đói vùi dập đến mất hết cả tự trọng thì khi trở thành người thân trong gia đình Tràng, ở thị lại toát ra vẻ đẹp của người vợ hiền, dâu thảo. Thị cũng ngại ngùng, e thẹn như bao thiếu nữ ngày đầu về nhà chồng. Về đến nhà Tràng, thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, tay vân vê tà áo.

Dưới bàn tay vun vén, đảm đang của thị, cuộc sống nghèo khổ, u ám của mẹ con Tràng trở nên tươi sáng hơn. Nhà cửa, sân vườn được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch. Chính Tràng cũng nhận thấy thị “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn” như trước nữa. Như vậy, qua nhân vật Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, Kim Lân đã ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam. Họ luôn sống nhân ái, giàu tình cảm, trong hoạn nạn đã nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc nhau. Và có lẽ, chính nhờ tình thương ấy sẽ giúp cuộc sống của họ trở nên tươi sáng, tốt đẹp hơn!

Có ai đó đã từng nói rằng: “Đói nghèo, đau đớn hay bệnh tật có thể cướp đi sinh mệnh nhưng bạn sẽ thực sự chết khi không còn niềm tin và khát vọng sống”. Với Kim Lân, để nhân vật của mình có thể đi tới tương lai tốt đẹp, ông không chỉ trao cho họ tình yêu thương mà lớn lao hơn là khát vọng sống, khát vọng tình yêu mãnh liệt. Đối với nhân vật Tràng, khi anh ta dang tay cưu mang người đàn bà giữa cơn đói khủng khiếp, ở đó không chỉ có tình người, tấm lòng sẵn sàng sẻ chia bất hạnh mà tiềm ẩn cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc gia đình. Với một anh chàng vừa xấu xí, thô kệch lại vừa nghèo đói và dở hơi thì việc lấy được vợ là không thể hi vọng. Cưu mang người đàn bà cũng chính là tự tìm cho mình tình yêu và hạnh phúc tương lai với một mái ấm gia đình “cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.

Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.”. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc biến Tràng từ người đàn ông ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn trở thành người đàn ông có trách nhiệm, một người con có hiếu. “Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Không chỉ vậy, khát vọng hạnh phúc, tương lai đã thôi thúc Tràng nghĩ đến việc tự đứng dậy tìm đường sống cho mình, vực dậy hoàn cảnh khốn cùng hiện tại. Trong đầu óc anh ta bắt đầu nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Có lẽ, Tràng cũng sẽ đi cướp kho thóc Nhật, phá tan xiềng xích nô lệ. Tràng tin tưởng rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi.

Không chỉ Tràng, người vợ nhặt của Kim Lân cũng mang khát vọng sống đáng trân trọng. Giữa cái đói bủa vây, đe dọa tính mạng, thị đã không ngần ngại bỏ qua lòng tự trọng của bản thân, xin vào vài câu nói đùa để theo không người đàn ông xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã chứng minh, thị vốn không phải người chao chát, chỏng lỏn, vô liêm sỉ như vậy. Tất cả bắt nguồn từ khát vọng được sống mà thôi. Cũng chính sự xuất hiện của thị đã đem đến ánh sáng cho cuộc sống u tối của những người dân nghèo xóm ngụ cư, cho mẹ con Tràng. Nguồn sinh khí ấy có được xuất phát từ một con người có ước vọng cao cả vào sự sống, tương lai.

Khi nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc…ta dễ nghĩ đến những người trẻ tuổi. Nhưng thật kì lạ, trong “Vợ nhặt”, chính người già nhất, “gần đất xa trời” nhất trong tác phẩm lại là người nói nhiều đến hi vọng và ngày mai hơn cả. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Bà muốn gieo vào lòng các con niềm lạc quan, tin tưởng và tương lai. Đầu tiên là hành động thúc giục Tràng thắp đèn. Ánh sáng thắp lên làm lan tỏa ánh sáng tình người, niềm vui hạnh phúc giữa khung cảnh bi thảm, tang thương. Nhưng hơn thế, bà cụ chính là đang động viên các con nhen nhóm trong lòng ánh sáng của tin và hi vọng. Đọc tác phẩm, có lẽ chúng ta sẽ không thể nào quên bữa cơm ngày đói của gia đình bà cụ Tứ. Thế nhưng, nói về cái món “chè khoán” đắng chát và nghẹ bứ cổ họng bà cụ vẫn “tươi cười, đon đả”. Thực chất, bà sao không hiểu cái thảm đạm của bữa ăn này. Nhưng trong cảnh đói nghèo, bà còn có thể làm gì hơn được.

Bà cụ chỉ đang cố đè nén lại mọi uất ức, tủi hờn cho một kiếp sống để mà vui mà mừng, tránh cho các con nghĩ tới những điều đau khổ, tuyệt vọng. Trong cảnh xã hội đang chết đói, có được một bữa ăn thì dù đó là cháo cám cũng là niềm hạnh phúc đáng quý mà bà mẹ muốn giành cho các con. Tiếng cười của bà cụ như bóp nghẹt trái tim độc giả, xót xa và đáng thương biết bao. Không chỉ vậy, bà còn vẽ ra trước mắt các con viễn cảnh tương lai tươi sáng, bắt đầu từ những việc bình dị nhất, thiết thực nhất với gà, lợn, ruộng vườn…khiến các con tin tưởng nó không quá xa vời. Xa hơn nữa, là một ước mơ có phần đau đớn về ngày mai, “rồi may ông giời cho khá.

Biết thế nào hở con? Không ai giàu ba bọ, không ai khó ba đời”. Bà cụ Tứ dùng một triết lý dân gian đúc kết kinh nghiệm cha ông truyền lại để nhắc nhở với các con và khẳng định các con bà hoàn toàn có quyền tin tưởng vào ngày mai hạnh phúc, đủ đầy. Bà cụ không chỉ ước ao, hi vọng cho bà. Bà tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự vun vén cho con, ước mơ cho con cháu sau này. Có thể người ta sẽ nói bà cụ viển vông, hão huyền. Bởi lẽ, trong cái thời người chết đói đầy đường, đến cháo cám mà “trong xóm cũng khối nhà chả có cám mà mà ăn” thì những hi vọng của bà lão thật phi thực tế. Nhưng, chúng ta không thể không thừa nhận, trong mọi trường hợp, niềm tin luôn tồn tại như một sức mạnh vô hình khiến con người vượt qua tất cả. Chính những niềm tin bà cụ Tứ đã gieo vào lòng các con đã đem đến cho gia đình khốn khổ ấy một sự “thay đổi mới mẻ và khác lạ”.

Những mảnh đời nghèo khó đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy vọng. Giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” không chỉ được biểu hiện trực tiếp qua tâm trạng nhân vật mà còn được gián tiếp bộc lộ qua bố cục câu chuyện. Thời gian trong truyện vận động theo chiều hướng bắt đầu đi từ chiều tàn chạng vạng, đêm tối tới ánh sáng từ “tuyệt vọng” tới “hy vọng”, từ “một ngọn đèn” hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Đó là những dấu hiệu tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một nhân cách, một khát vọng và một sự chuẩn bị cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. Và, ta thấy đâu đó, ở cuối truyện, thông qua hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới và đoàn người đói đi trên đê, một tương lai tươi sáng đang đến rất gần!

Như vậy, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã chứng minh giá trị nhân đạo nhân đạo sâu sắc của ngòi bút Kim Lân. Giá trị nhân đạo không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của con người mà nhà văn còn bộc lộ sự chống lại chế độ xã hội phát xít thực dân đã bóp nghẹt cuộc sống của con người, đẩy những người dân nghèo chất phác, lương thiện tới bước đường cùng. Đặc biệt hơn, giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” không dừng lại ở tư tưởng xáo rỗng mà thiết thực hơn, Kim lân đã chỉ ra cho những người nông dân giải pháp để vượt qua hoàn cảnh khốn cùng. Đó chính là đấu tranh chống lại chế độ xã hội, đòi quyền con người, tự mình đi tìm tương lai cho chính mình!

----------------------

Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:

  • Phân tích tình huống độc đáo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
  • Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật trong truyện ngắn Vợ nhặt

Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Giải bài tập Lịch Sử 12, Giải bài tập Địa Lí 12, Học tốt Ngữ văn 12, Tài liệu học tập lớp 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Ngoài bài viết trên, mời các bạn tham khảo thêm bài Phân tích tác phẩm vợ nhặt để học tốt môn Ngữ văn lớp 12.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12 để có thêm tài liệu học tập nhé

Video liên quan

Chủ Đề