Điểm giống nhau của các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ bắc thuộc là

Suốt thời kỳ Bắc thuộc lần 3 trong lịch sử Việt Nam, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của cư dân Giao Châu đã nổ ra để chống lại sự cai trị của các triều đại Trung Quốc. Số ấy gồm hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nhỏ và 4 cuộc khởi nghĩa lớn là các cuộc khởi nghĩa của các thủ lĩnh Lý Tự Tiên - Đinh Kiến, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng và Dương Thanh.

Mục lục

  • 1 Nguyên nhân
  • 2 Các cuộc khởi nghĩa
  • 3 Xem thêm
  • 4 Chú thích

Nguyên nhânSửa đổi

Có nhiều nguyên nhân khiến cho thời kỳ này là một trong những thời kỳ có nhiều khởi nghĩa. Theo Việt Nam sử lược thì nguyên nhân chủ yếu là sự cai trị của người Trung Quốc, đặc biệt là thời Đường quá khắc nghiệt, các quan nhà Đường làm nhiều điều tàn bạo, bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, cư dân khổ sở dẫn đến họ khởi nghĩa.[1]

Các cuộc khởi nghĩaSửa đổi

Mùa thu năm 687, do không chịu nổi ách sưu thuế nặng nề, người châu Giao là Lý Tự Tiên liền lãnh đạo dân nổi dậy. Quan nhà Đường cai trị là Lưu Diên Hựu đã giết Lý Tự Tiên. Thuộc hạ của Lý Tự Tiên là Đinh Kiến đem quân vây đánh Lưu Diên Hựu, chiếm được thành Tống Bình và giết được viên quan này. Nhà Đường phải phái Tào Trực Tĩnh từ châu Quế sang dẹp và giết Đinh Kiến.

Tháng 4 năm 713, Mai Thúc Loan, người châu Hoan xưng vua, cho xây thành lũy, lập kinh đô Vạn An[2], tích cực rèn tập tướng sỹ và sai sứ giả sang các nước Lâm Ấp, Chân Lạp phủ dụ họ đem quân hỗ trợ. Ông tự xưng là Mai Hắc Đế. Năm 714, Mai Hắc Đế tiến binh đánh thành Tống Bình. Thái thú nhà Đường là Quách Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy về nước. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới chục vạn quân. Nhà Đường bèn huy động 10 vạn quân do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách sang đàn áp được.

Năm 791, anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi nổi dậy kéo quân vây Phủ Đô hộ An Nam. Tiết độ sứ là Cao Chính Bình đối phó không được nên sinh bệnh mà chết. Phùng Hưng chiếm thành, làm chủ châu Giao. Sau khi ông mất, con ông là Phùng An đã đầu hàng Triệu Xương nhà Đường.

Năm Quý Mùi [803], một người Vương Quý Nguyên nổi dậy làm binh biến đuổi quan Đô hộ Bùi Thái về lại Trung Quốc.

Năm 819, người Tày - Nùng ở Tả, Hữu Giang [phía Tây Bắc của châu Giao] nổi dậy chống nhà Đường. Quan cai trị Lý Tượng Cổ [tông thất nhà Đường] sai thứ sử châu Hoan là Dương Thanh mang 3.000 quân đi dẹp. Dương Thanh thừa cơ nổi dậy chiếm được Phủ Đô hộ, giết được Lý Tượng Cổ. Sau tướng nhà Đường là Quế Trọng Vũ dùng kế chia rẽ Dương Thanh với các tướng thuộc hạ. Ông không giữ được thành, cuối cùng bị bắt và bị giết. Các thủ hạ lui về giữ Trường châu[3] đến tháng 7 năm 820 thì bị dẹp hẳn.

Năm Mậu Thân [828], binh lính người bản xứ nổi dậy đuổi đô hộ sứ Hàn Ước chạy về Trung Quốc.

Năm Canh Thìn [860], một người tên là Đỗ Thủ Trừng dấy binh ở vùng Đỗ Động [Thanh Oai] kéo đánh phá thủ thành, đô hộ sứ Lý Hộ bỏ thành mà chạy.

Xem thêmSửa đổi

  • Lý Tự Tiên
  • Đinh Kiến
  • Mai Hắc Đế
  • Phùng Hưng
  • Dương Thanh
  • Bắc thuộc lần 3

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, CHƯƠNG V: Bắc Thuộc lần thứ Ba Lưu trữ 2009-04-27 tại Wayback Machine
  2. ^ Thuộc xã Văn Diên và thị trấn Nam Đàn, Nghệ An hiện nay
  3. ^ Tam Điệp, Ninh Bình

Đáp án A

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và khởi nghĩa Lý Bí đều diễn ra qua hai giai đoạn: khởi nghĩa giành được chính quyền và kháng chiến chống lại sự xâm lược của phong kiến phương Bắc.

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Nhà Nguyễn thành lập vào năm bao nhiêu [Lịch sử - Lớp 5]

4 trả lời

Tìm các số nguyên x; y biết [Lịch sử - Lớp 6]

1 trả lời

Sau khi lên làm vua, Trưng Vương đã bắt tay ngay vào xây dựng chính quyền

Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa trong tình hình xã hội nước ta đang như thế nào?

Kế hoạch đánh giặc Nam Hán của Ngô Quyền có nét gì nổi bật?

Ý nào sau đây không phản ánh đúng nét nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lý Bí?

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có ý nghĩa như thế nào trong lịch sử dân tộc

Điểm giống nhau giữa khởi nghĩa Hai Bà Trưng và khởi nghĩa Lý Bí là gì?

Hãy kết nối thông tin ở cột bên trái với cột bên phải sao cho phù hợp

Điểm giống nhau của các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ Bắc thuộc làTrình đọc Chân thực A. mục tiêu giành độc lập, tự chủ cho dân tộc. B. đều giành thắng lợi và thành lập chính quyền tự chủ. C. đều đem quân sang tấn công đất người Hán. D. đều kết thúc chiến tranh bằng giảng hoà. Helppppppppppppppppppp

a] Khởi nghĩa Hai Bà TrưngMùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn [Phúc Thọ, Hà Tây]. Được đông đảo nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng, quân khởi nghĩa đánh chiếm Mê Linh [Vĩnh Phúc], rồi từ Mê Linh tiến đánh, chiếm Cổ Loa [Đông Anh, Hà Nội] và Luy Lâu [Thuận Thành. Bắc Ninh]. Thái thú Tô Định phải trốn chạy về nước. Cuộc khởi nghĩa kết thúc thắng lợi, Trưng Trắc được nhân dân suy tôn làm vua, đóng đô ở Mê Linh.Lên làm vua. Trưng Vương bắt tay ngay vào việc xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ và xá thuế trong 2 năm liền cho nhân dân ba quận.Nhiều nữ tướng tham gia chỉ huy cuộc khởi nghĩa được phong chức tước như Trần Thị Đoan, Lê Chân, Thiều Hoa, Ngọc Lâm, Vũ Thục Nương... Tổ chức chính quyền của Trưng Vương còn rất sơ khai nhưng là một chính quyền độc lập, tự chủ của nhân dân ta được ra đời sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi và đã cổ vũ tinh thần đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc sau đó.Mùa hè năm 42, Mã Viện được vua Hán cử làm tổng chỉ huy đạo quân lớn khoảng 2 vạn người, chia làm 2 cánh thuỷ, bộ kéo vào xâm lược nước ta.Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo rất anh dũng, nhưng do lực lượng yếu nên đã bị thất bại.Cuộc chiến đấu đã diễn ra quyết liệt ở Lãng Bạc. Nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch, Trưng Vương phải rút quân về cổ Loa Cổ Loa bị thất thủ, quân Trưng Vương lui về Hạ Lôi và từ Hạ Nội lui về giữ Cẩm Khê [vùng chân núi Ba Vì đến vùng chùa Hương - Hà Tây] Quân Mã Viện dồn sức đánh bại quân Hai Bà ở Cấm Khê. Hai Bà Trưng hi sinh. Đại quân của Hai Bà bị tan vỡ, số còn lại rút về chiến đấu ở Cửu Chân cho đến khi bị tiêu diệt.

b] Cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân

Mùa xuân năm 542, nhân lúc nhân dân đang oán giận chế độ bóc lột hà khắc của nhà Lương, Lý Bí liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền Bắc nước ta, nổi dậy khởi nghĩa. Chưa đầy 3 tháng, nghĩa quân đã đánh chiếm được châu thành Long Biên [Bắc Ninh]. Chính quyền đô hộ bị lật đổ. Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi vua [Lý Nam Đế], đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở cửa sông Tô Lịch [Hà Nội]. Nhà nước Vạn Xuân độc lập, tự chủ ra đời.Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên cùng với Thứ sử Giao Châu đem quân sang xâm lược nước ta. Lý Nam Đế phải rút quân về Vĩnh Phúc, rồi Phú Thọ và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục rút quân về đầm Dạ Trạch [Khoái Châu, Hưng Yên] tổ chức kháng chiến. Đến năm 550, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Triệu Quang Phục lên làm vua [Triệu Việt Vương].Năm 571, Lý Phật Tử [một người họ hàng với Lý Nam Đế] bất ngờ đem quân lánh úp Triệu Việt Vương, cướp ngôi. Sử ghi là Hậu Lý Nam Đế. Năm 603, nhà Tuỳ đem quân xâm lược. Lý Phật Tử bị bắt. Nhà nước Vạn Xuân kết thúc.

c] Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ

Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy sụp, Khúc Thừa Dụ được nhân dân ủng hộ, đánh chiếm Tống Bình [Hà Nội], giành quyền tự chủ. Năm 907. Khúc Hạo lên thay, thực hiện nhiều chính sách cải cách về các mặt để xây dựng chính quyền độc lập tự chủ, được nhân dân đồng tình ủng hộ.Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta suốt nghìn năm Bắc thuộc đã giành được thắng lợi về căn bản, tạo điều kiện để đi đến hoàn toàn tháng lợi vào năm 938.

d] Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938

Năm 931, Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược của Nam Hán, thay họ Khúc nắm giữ chính quyền tự chủ. Đầu năm 937, ông bị Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Tháng 10 — 938. Ngô Quyền đem quân đánh Kiều Cống Tiễn. Công Tiễn cho người sang cầu cứu nhà Nam Hán, lợi dụng cơ hội này, quân Nam Hán kéo vào xâm lược nước ta lần thứ hai.Ngô Quyền nhanh chóng tiến quân vào thành Đại La [Hà Nội], bắt giết Kiều Công Tiễn và dùng kế đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng, cho quân mai phục ở bên bờ sông. Khi thuỷ triều lên, ông cho một toán quân ra khiêu chiến, giả lua, nhử quân Hán vào bên trong bãi cọc. Vừa lúc nước triều rút, cọc nhô quân ta đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng cọc lại bị đánh từ nhiều phía, tan vỡ, tướng giặc bị tiêu diệt.Nhận xét về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế kỉ XVIII viết : “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho việc phục lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào uy thanh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu”.Quân 13 nhử địch vâo trận địa. Bãi cọc ngắm Địch tiến quân. Địch tháo chạy.

Chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 đã mở ra một thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta.

Video liên quan

Chủ Đề