Cúng mông sơn thí thực là gì

GNO - Tôi có tâm nguyện cúng thí thực cho chư vị cô hồn, những người chết chưa được siêu thoát hiện đang vất vưởng đói khổ và cầu nguyện cho họ được sanh về Cực lạc. Tôi biết chư vị ấy đói khổ nên chỉ mong cho họ được no đủ và siêu thoát mà thôi, không cầu xin gì khác. Xin quý Báo cho biết, muốn cúng thí thực cần sắm những vật phẩm gì, đọc tụng kinh nào? Hàng đêm, tôi có thể tụng kinh và hồi hướng công đức cho các vị cô hồn được không?

[VĂN NHÂN, nhannv…@gmail.com]

Bạn Văn Nhân thân mến!

Trước hết, chúng tôi xin xác định cụm từ “chư vị cô hồn” không mông lung là “những người chết chưa được siêu thoát” mà chính là những chúng sinh trong loài ngạ quỷ, một loài trong lục đạo. Vì nghiệp nhân chính yếu là tham lam, keo kiệt nên chúng sinh sau khi chết đọa vào loài ngạ quỷ chịu nhiều đói khát.

Khi cúng thí cho loài ngạ quỷ thì chư vị được tạm thời no đủ, nhưng được vãng sinh hoặc thoát kiếp ngạ quỷ hay không tùy thuộc vào khả năng tỉnh thức của chính họ. Dù được nghe kinh pháp mà không sám hối, thức tỉnh, tu hành, mong muốn thoát khỏi cảnh khổ thì ngạ quỷ chỉ được bữa no mà thôi.

Bạn đã nhận thức đúng khi “biết chư vị ấy đói khổ nên chỉ mong cho họ được no đủ mà không cầu xin gì khác”. Theo Phật pháp, cúng thí thực là phát tâm từ bi, bố thí các vật thực cho loài ngạ quỷ đang đói khát được ấm no. Nhờ mở rộng lòng thương mong cho chúng sinh bớt đói khổ và thực hành bố thí nên thành tựu công đức, phước báo.

Ngạ quỷ là một trong nhiều đối tượng cần bố thí, như bố thí cho người nghèo, bố thí cho loài súc sinh v.v… Những ai bố thí cho ngạ quỷ mà có dụng tâm mong được hỗ trợ cho điều này, việc kia thì không phù hợp với tinh thần “bố thí với đôi bàn tay rộng mở” của Phật giáo.

Lễ phẩm để cúng thí thực chủ yếu là thực phẩm, cơm cháo đồ ăn thức uống kẹo bánh nói chung cùng với hương, đèn, hoa, trái. Thiển nghĩ, không nên cúng vàng mã và tiền lẻ [nếu không yên lòng thì chỉ cúng một ít, thật ít, có tính tượng trưng mà thôi]. Vì đây là những lễ phẩm thuộc tín ngưỡng dân gian với niềm tin “trần sao âm vậy” được pha trộn vào lễ phẩm thí thực Phật giáo. Vấn đề vàng mã, xét về tâm niệm “mong cho người âm được đủ đầy” thì đáng trân trọng nhưng xét về khả năng thọ dụng của ngạ quỷ thì “không tương ưng xứ” nên họ không dùng được và không thực sự lợi ích.

Sau khi sắm sanh lễ vật cúng thí đầy đủ, hợp thời là vào buổi chiều hoặc tối, đốt hương đèn, tụng niệm theo nghi thức Mông sơn thí thực. Nghi thức này thường có trong các kinh nhật tụng. Khi tụng niệm cần nhất tâm và mong cho các ngạ quỷ đói khổ được no đủ. Nếu không có nghi thức Mông sơn thí thực, bạn có thể thành tâm khấn nguyện, lòng bạn như thế nào thì khấn nguyện như thế nấy. Tâm thành thì sự thành.

Hàng ngày bạn tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật xong hồi hướng công đức cho các loài cô hồn ngạ quỷ là điều nên làm. Việc hồi hướng công đức càng rộng lớn bao nhiêu thì lợi ích càng tăng thêm bấy nhiêu. Nhiều bộ loại ngạ quỷ sống cộng cư với loài người nơi gốc cây, giếng cạn, gò mối, nhà hoang, đồng trống v.v… Nếu bạn làm được công đức, phước báo gì mà hồi hướng đến họ thì vô cùng hoan hỷ. Khi bạn không có gì cúng thí, chỉ cần rải tâm từ “mong cho các loài ngạ quỷ xung quanh đây được hạnh phúc, an vui” thì họ đã hạnh phúc, ấm áp, an vui hơn rất nhiều.

1. Tư sinh thí: cũng gọi là tài thí, như áo cơm, tiền của, ruộng nhà, thuốc men v.v… để giúp cho sinh mạng. Còn đây thí dùng nước cơm cháo bánh cả cúng cụ, để giúp cho chốn minh đồ, được dứt khổ dặng vui, là Tư sinh thí.

2. Pháp thí: Lấy sự thuyết pháp, trì chú, tụng kinh, vận tâm quán tưởng, nay đây tức là tụng văn nầy, làm pháp quán tưởng, là Pháp thí.

3. Vô uý thí: như có người muốn làm lành mà sợ trước sợ sau, vì sợ làm không nổi, nếu ta có sức, giúp họ không sợ, khiến cho họ làm nên việc; nay vì chúng ở chốn u minh có cái sợ chịu kịch khổ nhiều kiếp dài dẳng; nương nhờ công đức đây, để trừ nghiệp chướng, lìa các bố uý, là Vô uý thí.

Thực: Có cái công giúp ích, cái nghĩa sống còn. Kinh nói: “Tất cả chúng sinh đều do nơi ăn uống mới sống ở đặng, nếu không ăn uống, thì thân thể ốm gầy, dẫu có thí tài, thí pháp nào đủ cho sinh mạng; nay nhân cực khổ của chúng sinh, mà khởi cái bi tâm, nên dùng thần chú, vật thực, mà cúng thí cho Quỷ loại, khiến đặng dứt khổ được vui.

Lại, có 4 cách ăn:

1. Đoàn thực, cũng kêu là đoạn thực, nghĩa là ăn bằng cách: Từ miếng, hay từ phần, từ đoạn dùng 3 trần là hương: hơi hám, vị: mùi vị, xúc :tiếp xúc, để làm thể. Biến đổi, tiêu hoại làm tướng. Thế là cách ăn của trời, người và súc sinh…ở Dục giới.

2. Xúc thực: lấy cái tâm sở tương ưng của 6 thức, tiếp xúc với cái cảnh vừa thích của ý, 5 căn hoà thuận, vui sướng làm cách ăn, tức là cách ăn của Quỷ thần.

3. Tư thực: lấy cái “Tư tâm sở” hữu lậu của ý thức, để chuyên tinh nghĩ nhớ [tư] chuyển thành cái cảnh thắng diệu thiền, giúp ích thân mạng của trời Sắc giới, liên miên tư tưởng mãi chẳng dứt, tức là chúng ở Sắc giới lấy “thiền duyệt” làm thức ăn. Lại, như ngửa trông lên cây me chua để dứt được cơn khát nước, treo bánh lên, để chung thấy mà đỡ được cơn đói bụng v.v…đó cũng là ăn bằng cách nghĩ nhớ [Tư thực].

4. Thức thực: lấy cái thức thứ 8 nó nối nhau giữ gìn căn thân khiến chẳng rã hoại, đấy thì 4 thánh 6 phàm chung đủ, chỉ có khác với nhau là mê và ngộ. Thánh nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn vẫn trong sáng, gọi là “Như Lai tạng thức”, vì nó duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu: phi có phi không, phi trụ phi chẳng trụ, đấy là cái ăn bằng cách vốn có công đức chẳng khá nghĩ bàn, mà làm sinh trụ.

Phàm phu thì thức tánh còn hoàn toàn là mê, tuy đâu sinh khởi nghiệp chủng đó, gọi là Hàm tàng thức, vì rằng nó hàm tàng các hạt giống thiện ác của hữu lậu và vô lậu, nên với phi có mà vọng chấp là thực có, do đó mà luân chuyển đến vô cùng. Đấy là cái ăn bằng nghiệp thức sinh diệt mà làm sinh trụ.

Song, Như Lai tạng thức, hàm tàng thức, cái danh dầu có hai, mà cái thể vốn có một, chỉ tuỳ theo mê và ngộ, nên phân làm hai, thế nên cả Thánh và phàm, đồng là thức thực.

Ba cách ăn trước thuộc về sự, cách ăn sau thuộc về lý, sự thì lệch về phàm phu, lý thì trùm cả Thánh phàm; tiến tới bậc nữa mà suy nghĩ, thì thánh nhân cũng đủ 4 cách ăn, phi ăn, phi chẳng ăn, thế là cách ăn bằng cách bất tư nghì viên dung diệu thực.

Lại, phải biết phép thí thực, ắt nhờ 3 vầng thế không, mới có thể giáp khắp được:

1. Hành nhân là người năng thí;

2. Quỷ loại là chúng năng thụ;

3. Và trung gian là vật sở thí.

Với cả 3 chỗ đó, thể tánh đều chẳng khá đặng. Song khi mà thể tánh chẳng khá đặng, vẫn y nhiên rỡ rỡ phân minh, khi mà rỡ rỡ phân minh, cũng vẫn y nhiên thể tánh chẳng khá đặng, thế là pháp thì bằng cách 3 vầng chẳng nghĩ bàn. Pháp thí như thế, thì tâm nào chẳng phải pháp, pháp nào chẳng phải đồ ăn. Song cũng thực nào chẳng phải pháp, pháp nào chẳng phải tâm, tâm đã giáp khắp, thì pháp và thực giáp khắp, tất nhiên chúng sinh trong lục đạo mười phương, đâu chẳng thụ hưởng đó mà được giải thoát.

Nghi: Quỹ tắc, cũng có nghĩa là cách thức, nghĩa là: văn Mông Sơn đây làm quỹ thức cho lễ Thí thực.

Phụ chú

Mông Sơn: Núi, ở về tỉnh Tứ Xuyên bên Trung quốc. Tập Mông Sơn thí thực nghi, tác giả là ngài Cam Lộ Pháp sư nhóm chép, tác giả này và tác giả tập Hồng Danh Bảo Sám cũng là một người, mà để khác hiệu, vì tập kia đề là Bất Động Pháp sư. Còn tập Mông Sơn Thí Thực nghi trong bản Kinh Nhật tụng đề Ngoại quốc Cam Lộ Thiền sư trú thích Tứ Xuyên Mông Sơn tập. Mà thuật giả Nhị khoá hiệp giải đã có dẫn giải rồi ở trước tập Hồng Danh Bửu Sám rằng: “Văn Mông Sơn, cũng là ngài Bất Động nhóm chép”.

Hàm tàng thức: tức là A-lại-da-thức, vì chân vọng hoà hợp nên nói là hàm tàng.

Như Lai tạng: là toàn chân tại vọng, nghĩa là chân tâm nó ở bên vọng tâm, chứ không hoà hợp, lộn xộn như A-lại-da-thức, vì thức A-lại-da nó hàm tàng tất cả thiện ác chủng tử, nên nói là chân vọng hoà hợp [lộn lộn, trộn lộn].

Chủ Đề