Việt Nam có bao nhiêu dân tộc có chữ viết riêng?

Biên phòng - Việt Nam hiện có 54 dân tộc anh em, trong đó, khoảng 30 dân tộc thiểu số [DTTS] có chữ viết, tiêu biểu như: Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Chăm, M’Nông... Tuy nhiên, xu hướng hội nhập văn hóa đã làm suy giảm ngôn ngữ “mẹ đẻ” của nhiều DTTS. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các DTTS là một trong những giải pháp cấp thiết trước mắt và lâu dài để giữ gìn bản sắc văn hóa, thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

  • Trên đỉnh Mường Lống có lớp học về đêm
  • Di chúc của Bác Hồ, một giáo trình tiếng Việt độc đáo
  • Dân tộc Tày đang đứng trước nguy cơ không còn lưu giữ được chữ viết

Một lớp học dạy chữ Khmer tại Trường Tiểu học Bà Gồng, thị trấn Ngan Dừa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Ảnh: Ngọc Ánh

Bức tranh ngôn ngữ đa dạng

Trong các DTTS ở nước ta, nhiều dân tộc đã có chữ viết từ xa xưa, thậm chí, một số dân tộc có nhiều hơn một hệ thống chữ viết. Xét về nguồn gốc, sự hình thành và phát triển, chữ viết của các DTTS ở nước ta khá đa dạng, phong phú. Một số hệ chữ viết có lịch sử trên dưới nghìn năm, đó là các hệ chữ viết của các dân tộc Khmer, Thái, Chăm, Tày, Nùng, Dao... Chữ Thái cổ, Chăm cổ, Khmer dựa trên tự dạng Sanskrit. Chữ cổ của người Tày, Nùng, Cao Lan, Dao... thuộc dạng chữ vuông, bắt nguồn từ chữ Hán. Nhiều hệ chữ viết khác được chế tác gần đây, dựa trên tự dạng La-tinh. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Văn Thông, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có thể phân biệt chữ viết các DTTS ở nước ta thành hai loại: Các hệ thống chữ viết cổ truyền và các hệ thống chữ viết mới.

Các hệ thống chữ viết cổ truyền đã có lịch sử nhiều thế kỷ, như chữ Hán, chữ Nôm Việt [còn gọi là “chữ Nho”], chữ Chăm cổ truyền, chữ Khmer, chữ Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Dao, Nôm Sán Chí, chữ Lự, chữ Thái cổ... Đó có thể là chữ viết ghi ý, hoặc nửa ghi âm nửa ghi ý, gốc Trung Quốc có tự dạng Hán, hoặc là chữ ghi âm gốc Ấn Độ có tự dạng Sanskrit. Còn các hệ thống chữ viết “mới” [còn gọi là các chữ viết từ dạng La-tinh] là các hệ thống chữ viết có lịch sử chưa dài, được chế tác trên cơ sở các ký hiệu của chữ La-tinh, có tự dạng La-tinh như chữ Quốc ngữ, chữ Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho, Bru-Vân Kiều, Tày, Nùng, Mường, Thái... Các hệ chữ viết tự dạng La-tinh của các DTTS ở nước ta ra đời trong những thời kỳ khác nhau. Một số bộ chữ ra đời trước năm 1945 [Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho], nhưng lại có hệ thống chữ La-tinh được chế tác sau năm 1960.

Trong hoàn cảnh cụ thể của các DTTS ở Việt Nam hiện nay, chữ viết có vai trò như một phương tiện để tăng cường sự cố kết trong nội bộ một dân tộc và hướng về cội nguồn. Có thể xem chữ viết là một phương tiện để người ở các nơi khác nhau có được “tiếng nói chung”. Chữ viết còn giúp cho việc thông tin tuyên truyền, chuyển tải các kiến thức khác nhau, trong đó có các kiến thức về chính ngôn ngữ các DTTS. Qua mặt chữ và các loại sách giáo dục sẽ tạo điều kiện cho học sinh và cán bộ, công chức, đồng bào thuộc các dân tộc khác nhau học tiếng, hiểu biết hơn về văn hóa các DTTS anh em.

Bảo tồn chữ mẹ đẻ

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng về việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết DTTS, nhiều chính sách cụ thể liên quan đến bảo tồn và phát triển tiếng nói, chữ viết dân tộc đã được Chính phủ ban hành. Theo đó, đã có 27/53 DTTS có bộ chữ viết riêng của dân tộc mình. Một số ngôn ngữ đang được sử dụng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình địa phương như tiếng Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Chăm, Mông, Thái, Xơ Đăng, Tày, Hà Nhì, Hrê, Cơ Tu... Một số ngôn ngữ DTTS đã được sử dụng để in các tác phẩm văn nghệ truyền thống, các sáng tác mới; để biên soạn các từ điển đối chiếu song ngữ, các sách miêu tả ngữ pháp, các sách giáo khoa...

Sách học chữ Khmer của học sinh tiểu học. Ảnh: Ngọc Ánh

Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện chính sách dạy và học ngôn ngữ DTTS cũng đã được triển khai nghiêm túc tại các trường phổ thông và bổ túc văn hóa vùng đồng bào DTTS trong cả nước. Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chương trình dạy song ngữ bằng 6 thứ tiếng dân tộc [gồm: Mông, Ba Na, Gia Rai, Chăm, Khmer, Ê Đê] cho các trường tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú vùng đồng bào DTTS. Có 21 tỉnh, thành đang tổ chức dạy học ngôn ngữ DTTS trong nhà trường. Hàng năm, có khoảng hơn 600 trường học, với 4.500 lớp học và 110 nghìn học sinh được học tiếng DTTS. Số học sinh được học tiếng DTTS chiếm khoảng 3,9% tổng số học sinh DTTS ở cấp học phổ thông.

Bên cạnh 6 tiếng DTTS chính thức được dạy trong nhà trường, còn có 7 tiếng DTTS đang triển khai dạy thực nghiệm trong trường phổ thông là: Hoa, Chăm, Thái, Cơ Tu, Tà Ôi, Pa Cô, Bru-Vân Kiều. Quy mô thực hiện 7 tiếng DTTS này ở hàng trăm trường, với hàng chục nghìn học sinh được học tiếng DTTS. Tỉnh Sơn La từ năm 2004 đã chỉ đạo nghiên cứu biên soạn chương trình, tài liệu giảng dạy văn học địa phương và chữ viết dân tộc Thái cho cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang công tác ở vùng DTTS. Tỉnh phấn đấu mỗi năm mở 5 lớp tiếng Thái, Mông cho 200 cán bộ, công chức, 4 lớp cho 200 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên công tác tại các xã đặc biệt khó khăn.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo chuyên đề đào tạo giáo viên tiếng DTTS đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Hội thảo được tổ chức trực tuyến với sự tham dự của đại diện 6 trường đại học, 14 Sở Giáo dục và Đào tạo.

Theo đánh giá sơ bộ, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị định số 82/2010/NĐ-CP của Chính phủ, việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của DTTS trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên đã được thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, hiện tại, giáo viên dạy tiếng DTTS vẫn thiếu về số lượng, không đồng đều về chất lượng. Thống kê cho thấy, đến năm học 2020-2021, cả nước có 1.026 giáo viên tiếng DTTS, chiếm 0,2% tổng số giáo viên các cấp học phổ thông. Giáo viên dạy tiếng DTTS có ở cả ba cấp học thuộc bậc học phổ thông, trong đó, cấp Tiểu học chiếm gần 90% số giáo viên tiếng DTTS trong cả nước. Đội ngũ giáo viên dạy tiếng DTTS nhìn chung trình độ còn thấp. Hiện nay, chỉ có giáo viên tiếng Khmer được đánh giá là cơ bản đạt trình độ chuẩn đào tạo về chuyên môn tiếng dân tộc theo quy định. Giáo viên tiếng DTTS còn lại đều chưa có giáo viên đạt chuẩn đào tạo về tiếng DTTS.

Để đảm bảo chất lượng dạy học tiếng DTTS theo chương trình giáo dục phổ thông mới, một số Sở Giáo dục và Đào tạo kiến nghị cần phải có cơ sở đào tạo đội ngũ giáo viên tiếng DTTS đạt chuẩn. Ngoài ra, cần phải có quy chuẩn về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học để giảng dạy tiếng DTTS.

Còn ông Sơn Phước Hoan, dân tộc Khmer, nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc thì cho rằng, cần có chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp đối với cả người học và người dạy tiếng DTTS. Hình thành các khoa hoặc bộ môn tiếng DTTS ở các trường cao đẳng, đại học để có thể đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc ở các cấp. Nghiên cứu, xây dựng chữ viết cho các dân tộc chưa có chữ viết nhưng đang có nhu cầu và có điều kiện để hình thành chữ viết của dân tộc đó...

Chủ Đề