Việc giáo dục phòng tránh bệnh học đường cho học sinh tiểu học hiện nay

Phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe học đường là vấn đề được các gia đình và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã và đang chăm lo chú trọng đầu tư rất lớn đến việc bảo vệ sức khỏe học sinh và nâng cấp cơ sở vật chất trường học, đáp ứng yêu cầu dạy và học.

Ở Quảng Trị, để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe và giáo dục toàn diện cho học sinh, từ năm 2004, chủ trương kiên cố hóa trường học cũng như việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia được các cấp ủy đảng, chính quyền và ngành giáo dục tích cực triển khai thực hiện.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, qua kiểm tra vệ sinh học đường và khám sức khỏe cho học sinh hàng năm, vấn đề vệ sinh học đường tại các trường học và gia đình hiện vẫn còn nhiều bất cập, là một trong những yếu tố có tác động rất lớn và trực tiếp đến tình hình sức khỏe học sinh, đặc biệt là các bệnh như cận thị và cong vẹo cột sống.

Cong vẹo cột sống và cận thị là hai bệnh chính trong trường học, có mối liên quan chặt chẽ với quá trình học tập của học sinh. Nguyên nhân của cong vẹo cột sống và cận thị ngoài yếu tố di truyền, các yếu tố liên quan đến môi trường học tập như: ánh sáng, kích thước bàn ghế, bảng, thói quen đeo cặp, tư thế học, đặc biệt là nơi học thêm của học sinh, góc học tập tại nhà…có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ mắc các bệnh tật học đường. Ánh sáng không đủ, kích thước từ chỗ ngồi tới bảng quá xa sẽ dễ dẫn đến tật cận thị; bàn ghế quá cao hay quá thấp, tư thế học xiêu vẹo và thói quen đeo cặp quá nặng, xách cặp không cân hai bên sẽ dễ dẫn đến cong vẹo cột sống…

Bên cạnh sức ép học tập theo giờ chính khóa, các em còn tiếp cận với những phương tiện như máy vi tính, trò chơi điện tử, xem ti vi, đọc truyện tranh chữ nhỏ, giấy đen… là nguy cơ dẫn đến các bệnh, tật cận thị và cong vẹo cột sống. Để phù hợp với sự đổi mới và phát triển giáo dục với tinh thần học sinh là chủ thể, phát huy tính tích cực của người học, các thiết kế trang thiết bị học tập, môi trường học đường cần được cải thiện, nhằm đảm bảo sức khỏe, giảm thiểu các bệnh học đường như cận thị và cong vẹo cột sống thường gặp cho các em.

Muốn thực hiện tốt các biện pháp phòng chống các bệnh học đường, các bậc phụ huynh cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường cải thiện điều kiện học tập cho con em mình; có kế hoạch bồi dưỡng, tập huấn công tác vệ sinh học đường cho cán bộ, giáo viên ngay từ đầu năm học và có đội ngũ cán bộ y tế chuyên trách trường học để kiểm tra vệ sinh học đường và khám sức khỏe cho các em học sinh…

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, vấn đề vệ sinh học đường được quan tâm tới nhiều khía cạnh khác nhau và liên quan tới nhiều bộ môn khoa học như: khoa học kỹ thuật xây dựng, khoa học phối hợp màu sắc và trang trí, đặc biệt là khoa học Ergonomi- là khoa học nghiên cứu sự phù hợp về sinh lý người và công cụ học tập như bàn ghế, dụng cụ học tập, bảng viết… Ergonomi trong xây dựng trường học đặc biệt chú ý tới sự phù hợp giữa tầm vóc học sinh với kích cỡ bàn ghế, độ cao của bảng cũng như khoảng cách từ bảng đến chỗ ngồi, chống nóng và chống rét, tận dụng hướng gió và ánh sáng… phù hợp với tiêu chuẩn vệ sinh.

Trường học là nơi tiếp xúc trong quá trình phát triển sinh lý của học sinh trong tương quan với xã hội bên ngoài, là môi trường sống, môi trường phát triển về thể lực và trí tuệ của học sinh nên vấn đề vệ sinh học đường cần được quan tâm hơn nữa nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện cho các em.

Với mục đích mô tả thực trạng môi trường trường, lớp và tìm ra các yếu tố liên quan đến bệnh tật học đường, đặc biệt là các bệnh tật như cong vẹo cột sống và cận thị, từ năm 2010, Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội tỉnh Quảng Trị đã thực hiện đề tài điều tra, nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp phòng ngừa làm giảm nhẹ hậu quả các bệnh tật học đường. Đối tượng nghiên cứu là 3.177 học sinh gồm 3 cấp học: Tiểu học, THCS và THPT thuộc 16 trường học trên địa bàn tỉnh.

Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu tầng ngẫu nhiên theo phân tầng miền núi, đồng bằng, miền biển và theo cấp học để tiến hành thu thập các thông tin: đo đạc các chỉ số vệ sinh học đường [theo tiêu chuẩn đánh giá dựa trên Quy định 1221/ QĐBYT 2000 của Bộ Y tế]; tỷ lệ mắc các bệnh tật cận thị, cong vẹo cột sống; thói quen học tập của học sinh. Kết quả về điều tra thực trạng vệ sinh trường học chỉ có 62,5% số cơ sở đạt yêu cầu hoàn toàn về vệ sinh học đường; 31,25% cơ sở có cán bộ y tế chuyên trách; 37,5% cơ sở bàn ghế đạt tiêu chuẩn quy định; 50% cơ sở đạt yêu cầu đầy đủ về hệ số chiếu sáng.

Về tỷ lệ bệnh tật học đường, tỷ lệ cận thị chung của học sinh phổ thông Quảng Trị là 13,1%, tăng dần theo cấp học: tiểu học 7,8%; THCS 13,7%; THPT 22,2%. Tỷ lệ cận thị ở thành phố, thị xã cao hơn ở nông thôn, miền biển và miền núi. Cận thị mắc phải chiếm tỷ lệ cao 89,9%, di truyền chỉ chiếm 10,1%. Tư thế nằm đọc có tỷ lệ cận thị 12,7% và tư thế đọc tùy tiện có tỷ lệ cận thị cao nhất là 17%. Có mối liên quan giữa cận thị với ánh sáng, tư thế ngồi học, học thêm, vùng, miền. Tỷ lệ cong vẹo cột sống chung của học sinh là 18,6%, trong đó học sinh nam là 21,1%; học sinh nữ là 16,3% và có sự khác biệt về cong vẹo cột sống ở học sinh cả 3 cấp. Tỷ lệ cong vẹo cột sống của học sinh miền núi là 16,8%, đồng bằng là 19,2%, thành phố là 19,8% và miền biển là 17,8%. Qua điều tra cho thấy bệnh cong vẹo cột sống có mối liên quan với các yếu tố: thói quen mang cặp, bàn ghế không thích hợp như ghế cao bàn thấp, ghế xa bàn, bàn ghế đều cao so với học sinh…

Từ kết quả điều tra, nghiên cứu thực trạng bệnh tật học đường trên địa bàn tỉnh, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị áp dụng các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh tật học đường, nhất là trong điều kiện học tập theo chương trình tương đối căng thẳng hiện nay như: Tăng cường sự lãnh đạo của Sở GD&ĐT, các phòng giáo dục để đưa công tác vệ sinh môi trường trường học vào kế hoạch hàng năm để trang cấp, cải tạo cơ sở vật chất cho các trường học.

Kiện toàn công tác y tế trường học, cần có cán bộ y tế chuyên trách để tổ chức tuyên truyền, giáo dục sức khỏe trường học, nắm vững các yêu cầu vệ sinh trường học để đề xuất với nhà trường thay đổi, sửa chữa các trang thiết bị phục vụ trong lớp học; đồng thời có kế hoạch theo dõi nhắc nhở học sinh luyện tập các bài thể dục cho mắt và cột sống. Tổ chức kiểm tra thị lực định kỳ, khám kiểm tra cho những học sinh cong vẹo cột sống để có thể điều trị phục hồi sớm cho các em.

Bên cạnh đó, việc thiết kế bàn ghế học sinh cũng phải tùy theo đối tượng cấp học, không đóng bàn ghế hàng loạt giống nhau mà phải chú ý đến quy định phù hợp với lứa tuổi. Nhà trường và gia đình cần kết hợp chặt chẽ với nhau trong công tác phòng chống bệnh học đường cho học sinh để giảm thiểu các bệnh tật thường gặp như cận thị, cong vẹo cột sống.

Học sinh là thế hệ tương lai của đất nước nên vấn đề sức khỏe học đường được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Môi trường học thích hợp, đạt tiêu chuẩn vệ sinh sẽ góp phần giảm thiểu bệnh tật học đường thường gặp. Bên cạnh những giải pháp của các ngành, các cấp và nhà trường nhằm xây dựng môi trường học tập thân thiện, đạt tiêu chuẩn quốc gia, các bậc cha mẹ và người chăm nuôi cần tạo cho con trẻ ý thức giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khỏe và có thói quen tốt ngay từ nhỏ là biện pháp quan trọng để tránh được nguy cơ mắc các bệnh tật học đường.

Nguồn: Báo Quảng Trị

Nguồn : //www.t4gquangtri.vn/

Ngoài những vấn đề về sức khỏe thể chất [bệnh tật], các em còn phải gánh trên vai sức khỏe tinh thần như áp lực tâm lý, cám dỗ, bạo lực… thậm chí, vấn nạn ma túy đang len lỏi vào trường học gây những hệ lụy khôn lường…

Sức khỏe học đường là sức khỏe về thể chất và tinh thần đối với lứa tuổi học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường từ mầm non, mẫu giáo đến học sinh trung học phổ thông [cấp ba] là chủ yếu, ngoài ra sinh viên cao đẳng, đại học cũng cần được quan tâm đúng mức.

Một số bệnh học đường thường gặp

Đó là các bệnh mà học sinh mắc phải trong quãng thời gian đi học, có liên quan đến điều kiện vệ sinh [nhà vệ sinh, lớp học, nhà ăn…], bệnh nhiễm trùng gây dịch [bệnh thủy đậu, bệnh tay chân miệng…], ánh sáng, độ chuẩn mực của phòng học, bàn ghế nơi các em học tập như tật khúc xạ [chủ yếu là cận thị], cong vẹo cột sống, rối loạn tâm lý…

Cận thị xuất hiện ngày càng nhiều ở tuổi học đường.

Tật khúc xạ chưa được chỉnh kính là một trong 5 nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa và giảm thị lực. Tại Việt Nam, trẻ em trong độ tuổi từ 6-15 tuổi có tỷ lệ mắc tật khúc xạ từ 20-40% ở khu vực thành thị, từ 10-15% tại khu vực nông thôn. Điều này có nghĩa có khoảng 3 triệu trẻ em đang có tật khúc xạ cần được chỉnh kính.

Bệnh cong vẹo cột sống hiện nay ở học sinh đang là vấn đề đáng lo ngại. Theo Bộ Y tế, ở Việt Nam, tỷ lệ cong vẹo cột sống ở học sinh chiếm tỷ lệ khoảng từ 15-30%. Ở trẻ lứa tuổi học sinh, cột sống còn mềm mại, nếu ngồi sai tư thế lâu như cúi gập, ưỡn, vẹo sang phải hoặc trái sẽ dẫn đến cong lưng; vẹo lưng [ở đoạn cột sống ngực]; ưỡn lưng do đoạn cột sống thắt lưng ưỡn ra trước. Nguyên nhân cong vẹo cột sống là do học sinh ngồi học không đúng tư thế, kích thước bàn ghế không phù hợp với từng lứa tuổi [quá cao hoặc quá thấp], hoặc ngồi quá lâu để học bài, xem ti vi, máy tính…

Bệnh thừa cân, béo phì ở trẻ tuổi học đường do kinh tế phát triển, đặc biệt ăn uống không hợp lý, không hợp vệ sinh [ăn nhiều chất béo, nhiều đường, ăn nhiều thức ăn nhanh…trong khi ăn ít rau, ít chất xơ, ít trái cây, uống ít nước…]. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh này trong học sinh chiếm khoảng từ 15-40%.

Hoạt động y tế trường học tập trung công tác chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh học đường cho học sinh, phòng chống dịch bệnh có nguy cơ lây truyền trong trường học…

Một vấn đề khá phức tạp là rối loạn tâm thần ở tuổi học đường. Theo điều tra quốc gia do Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Tổ chức Y tế thế giới [WHO], Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc [UNICEF] thực hiện mới đây trên 3.000 học sinh tại Hà Nội và Hải Dương, khoảng 9% em nói từng có ý định tự tử, 6% đã có kế hoạch quyên sinh vì gặp nhiều vấn đề trong học tập, cuộc sống; gần 19,5% học sinh trong độ tuổi 10-16 có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Tỷ lệ chung rối loạn tâm thần học đường khá cao [7-25%]; số học sinh có ý định tự tử tăng cao [16,9%], trong đó 21,8% phải đến bác sĩ chuyên khoa để được điều trị. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do khối lượng học tập quá tải, học thêm, bồi dưỡng ngoài giờ liên miên. Mặt khác một số phụ huynh kỳ vọng ở con em quá nhiều gây áp lực không nhỏ cho con em mình, tạo nên một tâm lý nặng nề cho trẻ. Thêm vào đó điều kiện vệ sinh, chăm sóc sức khỏe trong học tập nhiều nơi chưa đảm bảo, thời gian học chiếm hết thời gian vui chơi giải trí… khiến cho các em luôn trong tình trạng làm việc liên tục, đầu óc căng thẳng [stress] và cơ thể không có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống không điều độ [lúc no, lúc đói, không đúng giờ…], không đúng theo sinh lý của con người. Biểu hiện của rối loạn tâm thần ở lứa tuổi học đường với nhiều mức độ như mất tập trung, căng thẳng, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, chóng mặt, khó kiểm soát hành vi, nặng hơn nữa là biểu hiện trầm cảm, thậm chí hoang tưởng tự sát.

Tỷ lệ mắc các bệnh về răng miệng ở học sinh ngày càng có xu hướng gia tăng và chiếm một tỷ lệ rất cao khoảng từ  60-95%.

Ngoài các bệnh học đường, thời gian gần đây người ta thấy tỷ lệ học sinh  hút thuốc lá [4,7%], uống rượu, bia có xu hướng gia tăng [22,5%]. Đặc biệt, nổi lên vấn nạn bạo lực học đường ở nhiều nơi. Bạo lực học đường bao gồm học sinh với học sinh, thầy cô giáo với học sinh gây bất bình trong quần chúng nhân dân, nhất là các bậc phụ huynh đang có con em theo học ở các trường để xảy ra bạo lực học đường. Nguy hiểm hơn vấn nạn ma túy có nguy cơ thâm nhập học đường.

Nên làm gì để phòng chống bệnh học đường?

Để phòng tránh bệnh cận thị học đường hiệu quả cần đảm bảo nguồn sáng cho lớp học và chỗ ngồi học của các em. Không nên để trẻ em xem ti vi quá nhiều và ngồi gần. Chú ý bổ sung thêm vitamin A cho con trẻ bằng nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng vào bữa ăn như cà rốt, cá… hoặc uống thuốc hỗ trợ bổ sung vitamin A trong các Chương trình của Bộ Y tế.

Để phòng tránh cong vẹo cột sống cho các em, cần uốn nắn tư thế ngồi cho con trẻ hàng ngày để tạo cho các em thói quen ngồi học đúng tư thế.

Nên chăng ngành giáo dục cần xem xét lại chương trình học làm sao cho hài hòa với độ tuổi, các em phải có thời gian chơi để thoái mái tinh thần. Với các bậc phụ huynh không nên gây áp lực cho con em mình trong học tập, đừng kỳ vọng một cách vô lý là bắt con phải học thật giỏi để “đẹp mặt cha mẹ” trong khi năng lực của con mình có giới hạn, thay vào đó cần quan tâm về dinh dưỡng, tạo mọi điều kiện để trẻ được vui chơi thoải mái ngoài giờ học, ngủ đủ thời gian cần thiết.

Cần định kỳ kiểm tra sức khỏe cho các em học sinh.

Vai trò của công tác y tế trong trường học

Trẻ em và học sinh chiếm 1/3 dân số, nếu được chăm sóc, giáo dục tốt sẽ quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đây là lứa tuổi đang trong giai đoạn phát triển, hoàn thiện thể chất, tinh thần, hành vi lối sống và rất dễ mắc bệnh tật. Môi trường trường học có nhiều nguy cơ tiềm ẩn dễ phát sinh bệnh, tật ở trẻ em và học sinh.

Hiện nay nhiều nước trên thế giới xem trường học là nơi để tập trung nâng cao sức khỏe, thay đổi hành vi lối sống cho thế hệ tương lai của đất nước thông qua giáo dục sức khỏe, rèn luyện kỹ năng sống, cải thiện môi trường học tập, điều kiện chăm sóc sức khỏe cho học sinh. Vì vậy việc tổ chức triển khai xây dựng trường học nâng cao sức khỏe và phòng chống bệnh tật học đường cho học sinh trên phạm vi cả nước là rất cần thiết và phù hợp với xu thế chung của khu vực và thế giới.

Để triển khai đầy đủ và kịp thời các biện pháp chăm sóc trẻ em trong độ tuổi đến trường tại các trường học, vai trò của công tác y tế trong trường học là rất quan trọng và cần thiết. Hoạt động y tế trường học tập trung công tác chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh học đường cho học sinh, phòng chống dịch bệnh có nguy cơ lây truyền trong trường học, đồng thời cũng là nơi đầu tiên sơ cấp cứu cho học sinh trong những trường hợp các em ốm hoặc tai nạn thương tích tại trường trước khi chuyển viện. Điều này rất quan trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe học sinh. Cán bộ y tế trường học cũng là người tham mưu cho Hiệu trưởng tổ chức triển khai các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe, triển khai các chương trình phòng chống dịch, bệnh cho học sinh trong trường.


Video liên quan

Chủ Đề