Vì sao người ta bỏ chử trong tên

Chị Nguyễn Thị Kim Hoàng Linh Phương [33 tuổi, ngụ xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai] đã rút ngắn tên và có CMND mới với tên Nguyễn Kim Phương - Ảnh: A LỘC

Tôi ủng hộ điều này bởi việc đặt tên cho con, cháu là hết sức quan trọng. Đã có không ít người "khổ cả đời" vì những cái tên mà cha mẹ đặt cho.

Trách nhiệm khi đặt tên con, cháu

Tôi lớn lên nơi đồng quê. Ba má tôi đều làm nghề nông. Ba má tôi có cả thảy bảy người con. Ở nhà tôi, việc lựa chọn tên cho những đứa con, đứa cháu đều được ba tôi cân nhắc rất kỹ.

Má tôi kể ngày xưa, mỗi lần má mang thai là ba bắt đầu lựa tên. Vì ngày xưa không có siêu âm như bây giờ nên lúc nào ba cũng chọn hai cái tên cho con trai và con gái. Ba xem vô tuyến, nghe radio có tên nào hay là ghi lại rồi chọn lựa.

Sau đó, ba tôi xem những cái tên chọn được có trùng với ai trong họ hàng không, rồi đến hàng xóm láng giềng. Xưa nay, nhiều người luôn kiêng kỵ việc đặt tên bị trùng với tên ông bà.

Tiếp đến, ba sẽ chọn chữ lót gì cho hay. Nếu là con trai thì tên sẽ có ba chữ. Còn con gái thì tên có bốn chữ, trong đó có chữ "thị". Chưa kể việc lựa chọn tên của các con nghe sao cho nó có vần, có ý nghĩa. Bởi vậy, việc đặt tên cũng khó khăn vô cùng.

Vì vậy, mỗi lần nhắc đến, má tôi cười nói: có khi sinh xong rồi mà ba mày vẫn chưa chọn được cái tên cho con.

Rồi đến những đứa cháu lần lượt ra đời, anh trai và chị dâu tôi cũng nhờ ba chọn cho cái tên sao cho ý nghĩa.

Tên dài, tên lạ... khổ cháu con

Hiện tại, tôi đang giảng dạy tại một trường đại học. Những buổi học đầu tiên và làm quen với lớp bao giờ cũng mang lại nhiều điều bất ngờ và thú vị cho người dạy.

Lắm lúc trong ý nghĩ là gọi bạn nam trả lời câu hỏi. Vậy mà gọi tên xong thì một bạn nữ đứng lên hay ngược lại.

Bên cạnh những cái tên rất ngắn thì còn có những cái tên vừa, dài và rất dài. Thế nhưng có những tên vừa nhưng lại tạo ra sự bất ngờ như Nguyễn Văn Lục Lạo. Hay những cái tên mang ý nghĩa đẹp nhưng vì một lý do nào đó lại mất đi cái hay vốn có: Nguyễn Thị Mai Lang [thay vì Lan], Phạm Hùng Vỉ [thay vì Vĩ]...

Đặc biệt, những cái tên rất dài khi in danh sách vào điểm thì phải xuống dòng. Hoặc làm danh sách đưa các em tự ghi tên để làm việc gì đó thì những cái tên rất dài bao giờ cũng ghi hai dòng trong ô.

Đối với các bậc phụ huynh, việc lựa chọn tên cho con cái bao giờ cũng mang ý nghĩa riêng, đặc biệt là mong muốn về tương lai tốt đẹp của con mình. Tuy nhiên, chúng ta cần chọn tên có độ dài phù hợp. Ngoài những lý do đảm bảo ghi trên các văn bản hay giấy tờ, thì thông thường bạn bè hay ai đó gọi cũng chỉ gọi tên hay kèm chữ lót mà thôi.

Chưa kể có khi cha mẹ không mấy chú trọng đến việc đặt tên con nên nghĩ sao đặt vậy. Đến khi con đi học hay làm việc sẽ rất khổ tâm với những cái tên như: Nguyễn Thị Đẹt, Lê Văn Ròm, Đỗ Văn Út Mót, Mai Thị Dâng Hiến, Hồ Hận Tình...

Một số tên khá dài và lạ - Ảnh: A LỘC

"Tên dài quá có thể gây rắc rối cho chính người ấy"

THU THỦY [Kiên Giang]

Húy kỵ hay kiêng húy [đôi khi gọi là kị húy hoặc tỵ húy; n.đ "tránh tên"] là việc tránh dùng một số tên để bày tỏ sự tôn trọng trong xã hội tại các nước quân chủ chuyên chế thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Theo luật của một số nước thời xưa, mọi người dân phải kiêng kỵ tên húy của vua bằng cách không được phép dùng để đặt tên cho con cái trong gia đình cũng như không được phép dùng trong văn tự hay trong lời nói hàng ngày. Trong gia đình, con cái có thể kiêng gọi tên thật của ông bà tổ tiên do truyền thống văn hóa. Trong đời sống xã hội, có thể do mê tín dị đoan mà người dân tránh dùng một từ nào đó.

Kỵ húy có nguồn gốc từ Trung Quốc từ rất lâu và ảnh hưởng tới nhiều quốc gia trong khu vực văn hóa chữ Hán.

Bài chi tiết: Kỵ húy tại Việt Nam

Việt Nam có lịch sử một ngàn năm đô hộ của Trung Quốc nên chịu ảnh hưởng nền văn hóa Trung Quốc, trong đó có văn hóa "húy kỵ". Lệnh kiêng húy đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được ban hành tháng sáu năm Kiến Trung thứ tám [1232] dưới thời Trần Thái Tông[1]. Hoàng đế nhà Trần biện lẽ là ông tổ nhà Trần tên là "Lý" nên ai tên họ là Lý phải đổi tên. Lệnh hoàng đế đã ban thì thần dân phải thi hành; và đương nhiên con cháu nhà Lý phải từ bỏ gốc gác họ hàng của mình để được tồn tại. Lệnh kiêng húy do hoàng đế ban ra để giữ vẻ uy nghi của ngai vàng, kẻ nào phạm húy sẽ bị tru di tam tộc.

Sang triều Hậu Lê, ngày 20 tháng 4 âm lịch năm 1428, sau khi lên ngôi được 5 ngày[2] hoàng đế Lê Thái Tổ đã ban bố ngay lệnh kiêng húy rộng rãi nhất lịch sử[3]: Kiêng đến nhiều loại húy: quốc húy [gồm chính húy và thường húy], tên húy, gia tộc kính húy và dân gian húy[4].

Và từ đó đến mãi thời nhà Nguyễn, lệnh kiêng húy tiếp tục duy trì, nhiều thời được áp dụng một cách khắt khe. Do kiêng húy mà những danh nhân đất Việt đã một thời biến âm thành tên khác như Ngô Thì Nhậm [Ngô Thời Nhiệm], Phan Châu Trinh [Phan Chu Trinh], Châu Thượng Văn [Chu Thượng Văn][cần dẫn nguồn]...

Húy kỵ dưới triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt Quốc húy dưới thời các vua Nguyễn, khá phức tạp. Húy kỵ đã được nâng lên thành Quốc luật, làm thay đổi một phần ngôn ngữ.

Kỵ húy đối với sĩ tử khi đi thi thì có hai hạng: khinh húy và trọng húy. Khinh húy là phải kiêng tên cha mẹ cô chú của hoàng đế. Trọng húy là kiêng tên của vua. Ai phạm khinh húy trong bài thi thì bị đóng gông phơi nắng ba ngày, xong lại suốt đời bị cấm đi thi. Phạm trọng húy thì không những thí sinh bị tù mà những thày dạy học cũng bị phạt vì lỗi đã không chu toàn trách nhiệm giáo dục. Ai đang làm quan mà viết sớ phạm trọng húy cũng bị phạt như giáng cấp. Triều Gia Long luật pháp bắt đánh 80 trượng.[5]

Việc kỵ húy ảnh hưởng không những ở lời nói cửa miệng khi nói trại âm, mà ngay chữ viết, nhất là những công văn chữ Nho phải thay đổi, khi thêm bớt nét, khi thì dùng chữ cận âm hay đồng nghĩa để tránh phạm húy. Cũng căn cứ vào những sửa đổi trong văn tự này mà các học giả sau này có thể thẩm định niên đại của một bản văn dựa theo những cách viết kỵ húy.

Một số nhà sử học nước ta kiêng húy chữ "Tông" [Tên húy hoàng đế Thiệu Trị] mà đã đổi tên của các vua nước ta trước đó. Ví dụ:

  • Lý Thánh Tông đọc lại là Lý Thánh Tôn
  • Lê Thánh Tông đọc lại là Lê Thánh Tôn.
  • Trần Nhân Tông đọc lại là Trần Nhân Tôn.
BẢNG LIỆT KÊ NHỮNG CHỮ QUỐC HÚY THỜI NGUYỄN THƯỜNG GẶP
Âm chính
  • câm
  • mai
  • hoàng
  • nguyên
  • lan
  • tần
  • lỵ
  • thụy
Âm trại
  • kim
  • mơi
  • huỳnh
  • nguơn
  • lang, lam
  • tờn
  • lợi
  • thoại
Âm chính
  • lĩnh
  • chu
  • thụ
  • thư
  • dung
  • hoàn
  • phúc
Âm trại
  • lãnh
  • châu
  • thọ
  • thơ
  • dong
  • huờn
  • phước
Âm chính
  • ánh
  • chủng
  • đang
  • đảm
  • kiểu
  • hoa
  • thật
  • miên
Âm trại
  • yên, yếng, ảnh
  • chưởng
  • đương
  • đởm
  • cảo
  • huê
  • thiệt
  • mân
Âm chính
  • chính
  • tông
  • tuyền
  • hằng
  • hạo
  • nhậm
  • hồng
  • kính
Âm trại
  • chánh
  • tôn
  • toàn
  • thường
  • hiệu
  • nhiệm
  • hường
  • kiếng
Âm chính
  • thì
  • hài
  • chân
  • đường
  • cảnh
  • lân
  • san
  • điều
Âm trại
  • thời
  • hia
  • chơn
  • đàng
  • kiểng
  • liên
  • sơn
  • đều

Ngoài tên riêng là nguyên tổ và vua, nhiều khi tên của những người thân thuộc với vua cũng được kiêng như: cha, mẹ, vợ, con, anh, em,... và có khi đến hàng ông nội, bà nội, tên giả, chữ đệm của vua cũng được kiêng.

Hiện tượng biến đổi từ

Ngoài hiện tượng nói trại do kiêng húy, nhiều danh từ khác cũng được nói trại so với ngôn ngữ phổ thông như: đàn [nhạc cụ] thành đờn, sinh [đẻ] thành sanh, chính [chính trị, hành chính, chính sách, chính nghĩa,...] thành chánh, nàng thành nường, phụng [loài chim] thành phượng, long thành luông,tụng kinh thành tuộng canh, thủy thành thoải, ba thành bơ, v.v.

Thay đổi địa danh

Từ thời nhà Lê, vì kiêng tên chúa Trịnh Giang mà Cẩm Giang và Võ Giang gọi là Cẩm Giàng và Võ Giàng. Cũng theo lệ đó vì tên chúa Tây Vương Trịnh Tạc mà Tây Châu phải đổi là Nam Châu.[6] Vào đầu thời nhà Nguyễn phong tục này tiếp tục không những được duy trì mà còn mở rộng, vua Gia Long bắt kiêng cả tên con dâu 15 tuổi mới cưới về tên là Hồ Thị Hoa, do đó, chợ Đông Hoa phải đổi là chợ Đông Ba, cầu Hoa đổi là cầu Bông, huyện Hoa Khê [Phú Thọ] đổi thành huyện Cẩm Khê và huyện Mộ Hoa [Quảng Ngãi] đổi thành huyện Mộ Đức. Do chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ chùa "Thiên Mụ" thành chùa "Linh Mụ", huyện Thiên Thi [Hưng Yên] đổi thành huyện Ân Thi, huyện Thiên Bản [Nam Định] đổi thành huyện Vụ Bản và huyện Thiên Lộc [Hà Tĩnh] đổi thành huyện Can Lộc. Có nhiều từ ngữ khác, nhất là địa danh do kiêng húy mà biến đổi, nay đã thành quen thuộc: Trấn Thanh Hoa, đến thời Minh Mạng chuyển thành tỉnh, bị gọi là tỉnh Thanh Hóa[3], Kỳ Hoa chuyển thành Kỳ Anh hay sông Minh Lương [sông Bến Hói] đổi thành sông Hiền Lương, xã Trà Hương [tổng Trà Hương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương] đổi thành Trà Phương, huyện Thanh Đàm đổi thành huyện Thanh Trì [Hà Nội], huyện Vĩnh Ninh phải đổi tên đến hai lần thành huyện Vĩnh Phúc rồi huyện Vĩnh Lộc [Thanh Hóa]...

Lệ kỵ húy và vai trò khảo cổ

Trong các văn tịch và di tích cổ, các nhà nghiên cứu lịch sử các nước Á Đông trong khối chịu ảnh hưởng Nho học, trong đó có Việt Nam thường tìm những chữ thêm bớt nét [gọi là khuyết bút][7] hoặc trại âm để giúp ấn định thời điểm của việc biên chép, tôn tạo vì mỗi triều đại phong kiến lại quy định kỵ húy nhất định.[8] Ví dụ như triều Lê thì văn tịch phải kiêng tên vua Lê Thái Tổ, người khai sáng ra triều đại đó vốn là "Lợi", nhưng sang thời nhà Nguyễn thì không còn kiêng chữ Lợi trong các các văn kiện nữa, và theo đó có thể phân biệt rõ ràng thư tịch thời Lê với thời Nguyễn. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế ví dụ như những công văn thì việc ghi chép phải giữ phép tắc rõ ràng nhưng trong phạm vi riêng tư hạn hẹp, những trước tác góp nhặt thì không. Hơn nữa nhiều văn bản khi sao lại vào một thời điểm khác thì lại bỏ những phép xưa và lồng vào đó phép kỵ húy đương thời, dễ gây ra ngộ nhận về thời điểm tác phẩm.

Trong suốt lịch sử Trung Quốc, có những vua có tên húy là những chữ thông dụng, nên đã tìm cách để việc kiêng húy trở nên bớt nặng nề đối với thần dân. Chẳng hạn, Hán Tuyên Đế có húy là Bệnh Dĩ [病已] chứa hai chữ Hán rất phổ biến nên đã đổi tên thành Tuân [詢], một chữ ít phổ biến hơn.[9] Tương tự, Đường Thái Tông Lý Thế Dân [李世民] có hai chữ rất phổ thông là Thế và Dân chỉ bị cấm dùng với nhau mà không bị cấm dùng khi đứng đơn lẻ. Tuy nhiên, con trai ông là Đường Cao Tông đã yêu cầu cấm dùng hai chữ này hoàn toàn sau khi vua cha mất, điều này khiến tể tướng Lý Thế Tích phải đổi tên thành Lý Tích.[10]

Bộ mã ký tự KPS 9566 của Triều Tiên quy định thêm 6 ký tự đặc biệt dành cho tên của hai lãnh tụ của họ là Kim Il-sung [김일성] và Kim Jong-il [김정일] mà không sử dụng các ký tự Hangul sẵn có trong bộ mã. Sáu ký tự này nằm ở vị trí mã 04-72 đến 04-77, với dạng phông chữ đặc biệt, được in đậm so với các ký tự cùng tên thông thường, trong đó ký tự dành cho họ Kim [김] được mã hóa hai lần [vị trí mã 04-72 và 04-75][11].

Hàn Quốc

Thay chữ Hán này bằng chữ Hán khác [còn gọi là cải dụng [pháp]], thông thường áp dụng đối với trọng húy [chữ húy nặng, thường là tên vua]. Ví dụ:

  • Hán Văn Đế húy Lưu Hằng nên đã đổi Hằng Nga [姮娥] thành Thường Nga [嫦娥].

Thông thường việc thay chữ một chữ kiêng húy bằng một chữ đồng nghĩa hoặc đồng âm. Chẳng hạn Huyền Vũ môn 玄武門 [xuán wǔ mén] ở Tử Cấm Thành được đổi thành Thần Vũ môn 神武門 [shēn wǔ mén] để tránh tên của Khang Hi là Huyền Diệp [玄燁].

Bỏ chữ Hán

Tức là bỏ trống ô chữ, còn gọi là không tự [pháp]. Ví dụ:

  • Quan Thế Âm được bỏ chữ Thế trong tên húy của Đường Thái Tông là Lý Thế Dân thành Quan Âm.

Viết biến dạng

 

Tên thật của Khang Hi là Huyền Diệp [玄燁] được bỏ bớt nét trên mỗi chữ.

Chữ Hán kiêng húy có thể được thêm nét, bớt nét [gọi là khuyết bút], dùng chữ dị thể hoặc đảo bộ. Đời nhà Trần quy định về tị húy thường là viết bỏ bớt nét hoặc thêm vòng tròn nhỏ kế bên chữ. Đời nhà Lê thường viết thêm trên chữ húy 4 hay 3 nét gãy [

Chủ Đề