Tự vệ công nông là gì

Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định con đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền và yêu cầu phải tổ chức lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng [02/1930] do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo đã đề cập đến việcTổ chức ra quân đội công nông. Luận cương Chính trị của Đảng [10/1930] cũng chỉ rõ nhiệm vụ:Vũ trang cho công nông, Lập quân đội công nông vàTổ chức ra đội tự vệ công nông. Trong phong trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông, Đội tự vệ công nông [Tự vệ Đỏ] đã ra đời. Đó là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.

Sau 30 năm bôn ban tìm đường cứu nước, năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài về nước. Nhận thức được tình hình cách mạng Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc, ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 [khóa II] tại Pắc Pó - Cao Bằng, từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã kế thừa nội dung Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 [11/1939] và lần thứ 7 [11/1940], hội nghị tiếp tục xác định "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng".

Sau hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 5/1941, Đảng ta bắt tay vào việc triển khai tổ chức thực hiện đường lối giải phóng dân tộc, phát động phong trào kháng Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Trung ương duy trì và phát triển đội du kích để làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái quốc quyết định thành lập đội tự vệ võ trang Cao Bằng để thúc đẩy xây dựng cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang.

Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La [Đông Anh-Hà nội] bàn việc mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Trong 2 năm 1943 và 1944 phong trào cách mạng nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh căn cứ chủ trương của Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Sắm vũ khí, đuổi kẻ thù chung". Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ngày 22 tháng 12 năm 1944, "Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân" được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân [tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam]

thành lập ngày 22/12/1944. [Ảnh tư liệu: TTXVN]

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người, biên chế thành 03 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo.

Tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang trên cả nước [hợp nhất Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác], thành lập Việt Nam giải phóng quân.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam [năm 1946], đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam.Ngày 22-12-1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngay sau ngày thành lập, 17 giờ ngày 25 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhật vào đồn Phai Khắt [đóng tại tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình - nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng] và 07 giờ sáng hôm sau [26/12] lại đột nhập đồn Nà Ngần [đóng tại xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình - nay thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng], tiêu diệt hai tên đồn trưởng, diệt và bắtsốngtoàn bộ binh lính địch trong hai đồn, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược [từ tháng 9/1945 đến 7/1954], dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội nhân dân Việt Nam đã làm nên những chiến công oanh liệt như: chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947; chiến thắng Biên giới 1950; chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, đã đập tan chế độ thực dân kiểu cũ của CNĐQ, giải phóng Miền Bắc, đưa Miền Bắc quá độ lên CNXH, làm hậu phương vững chắc cho công cuộc giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ [từ 7/1954 đến 4/1975], Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ như: chiếnlượcchiến tranh đặc biệt [1961-1965]; chiến lược chiến tranh cục bộ[1965-1968]; chiếnlượcViệt Nam hóachiếntranh [1969-1972] và tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuânnăm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minhlịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn được giải phóng, cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ 1975 đến 1979 tình hình biên giới nước ta lại diễn biến phức tạp đòi hỏi Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục đánh thắng trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốcởbiên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tếởCam-pu-chia.

Từ năm 1986, dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện, đẩy mạnh huấn luyện, xây dựngnền nếp chính quy, từng bước hiện đại, tham gia phát triển kinh tế-xã hội, sẵn sàng, chủ động đánh thắng mọi âm mưu chống phá của CNĐQ và các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, sự nuôi dưỡng và đùm bọc của nhân dân, quân đội ta đã không ngừng phát huy bản chất tốt đẹp, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng thành, xây đắp nên truyền thống rất vẻ vang, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, quân đội ta đã phấn đấu liên tục, không ngừng giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, truyền thống vẻ vang của quân đội, xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ.

Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 25 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử, truyền thống vẻ vang của dân tộc, bản chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của quân đội và nhân dân ta. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý chí quật cường, ý thức tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Video liên quan

Chủ Đề