Tự triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài thơ Nhàn là 1 trong những bài thơ lừng danh của thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Mời các bạn cùng đi sâu phân tách bài thơ Nhàn để thấy được triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày qua tác phẩm.

Top 6 mẫu phân tách Nhàn hay nhất

Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là 1 cây đại thụ trong nền văn hóa thi ca Việt Nam. Trong bài viết này Hoatieu xin san sẻ các bài văn mẫu phân tách triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo. 1. Dàn ý triết lí sống nhàn trong bài thơ Nhàn I. Mở bài – Giới thuyết về quan niệm sống “nhàn” trong văn chương trung đại: Nhàn là triết lí sống, là phạm trù tư tưởng khá bình thường của con người trung đại, mỗi người lại có cách trình bày riêng. – Giới thiệu về thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông: Sống thuận theo lẽ thiên nhiên, hòa hợp với tự nhiên, cuộc sống bình dị, lánh đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong lành. II. Thân bài 1. Nhan đề. – “Nhàn” có tức là thảnh thơi, rảnh rỗi, nhàn hạ. Đây là tình trạng lúc con người có ít hoặc ko có việc gì phải làm, phải nghĩ suy. – “Nhàn: được biểu lộ ở 2 bình diện: Nhàn thân – sự nhàn rỗi tay chân, thân xác và nhàn tâm – sự dễ chịu, nhàn hạ trong tâm hồn. → Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn tâm, chứ chẳng phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi [trong bài Cảnh ngày hè] nhàn thân chứ ko nhàn tâm. 2. Nhàn là sự nhàn hạ, thung dung trong lòng với thú điền viên – Những hình ảnh bình dị, quen thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công tác lao động chi tiết của người dân cày quê đào đất, vụ xới, câu cá – Số từ “1” được lặp lại liên kết với phép liệt kê: Thể hiện công tác lao động bận bịu, nặng nhọc thường xuyên → Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với những công tác vất vả, nặng nhọc lấm láp – “Thơ thẩn”: Dáng vẻ thung dung, tự tại – Cụn từ “dầu người nào vui thú nào”: Phủ nhận những niềm vui đời thường nhưng mà thiên hạ tị nhau đeo đuổi. → Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công tác vất vả đó là niềm vui điền viên. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận bịu, cực nhọc mà tâm hồn luôn thung dung, tự tại, dễ chịu. 3. Nhàn là quan niệm sống lánh đục về trong – Phép đối: Ta – người, dại – khôn, nơi vắng ngắt – chốn lao xao: Nhấn mạnh quan niệm và triết lí sống của tác giả. – Phép ẩn dụ: + Nơi vắng ngắt: Chốn làng quê thanh bình, tĩnh tại, chốn bình an của tâm hồn + Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, bề bộn giành giật, đấu đá. – Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của 1 tư cách thanh cao và cái khôn của những con người chuộc lợi → Cách nói hóm hỉnh pha chút mai mỉa, vừa để răn mình vừa để dạy đời. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen lợi danh, trở về với cuộc sống thôn quê giản dị, bình an. 4. Nhàn là sống thuận theo lẽ thiên nhiên – Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ – thu – đông: Gợi về tự nhiên làng quê Bắc bộ. – Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ngã giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong thiên nhiên, mùa nào thức đó – Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo sự chỉnh sửa của tự nhiên, sống hòa vào cùng tự nhiên, thanh cao, giản dị. – Cách ngắt nhịp 4/3 rất ăn nhịp, cùng giọng điệu vui mừng thư thái: Gợi nhịp sống khoan thai, thung dung. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo thiên nhiên, tận hưởng những gì có sẵn trong tự nhiên, ko mưu cầu, bon chen. 5. Triết lí sống nhàn. – Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra phú quý chỉ là giấc mộng mộng mị ko có thật. – Động từ “nhìn xem”: Tâm thế ngửng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm ⇒ Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ là giấc mộng phù du, cái còn đó độc nhất vô nhị tư cách, tâm hồn của con người. Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng lợi danh nhưng mà hãy tìm tới cuộc sống thành thơi, thanh thản. III. Kết bài – Khái quát triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. – Liên hệ, mở mang: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn trình bày thâm thúy trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,.. 2. Phân tích triết lý sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ làm quan 8 5 sau ấy trở về ở ẩn. Bởi thế, thơ ca của ông thấm đượm triết lí sống nhàn. Sự nghiệp sáng tác của ông cho thấy quan niệm sống nhàn vô cùng phong phú, phức tạp. Và trong bài thơ Nhàn đã phần nào trình bày được sự phong phú về ý kiến sống đó. Trước hết, ý kiến sống nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày ở lối sống hòa hợp, thuận theo thiên nhiên: “1 mai, 1 cuốc, 1 cần câuThơ thẩn dầu người nào vui thú nào” Trong câu thơ đầu tác giả dùng điệp từ “1”, liên kết phép lặp cấu trúc: số từ cộng danh từ [mai, cuốc, cần câu] và nhịp thơ nhẹ nhõm 2/2/3 cho thấy nhịp độ đều đặn, thư thả của cuộc sống. Qua ấy thấy được phong độ sống bình dị, vui vẻ với thú điền viên. Ông đã sử dụng từ láy “thẩn thơ” vô cùng tài tình, cho thấy sự nhàn hạ, dễ chịu trong tâm hồn. Hai câu thơ đầu đã hé mở lối sống, quan niệm sống nhàn của Trạng Trình, nó được trình bày ở lối sống giản dị, thung dung, nhàn hạ, lánh xa cuộc sống đua chen vật chất, chức tước bình thường. Lối sống nhàn ấy tiếp diễn trình bày trong cung cách sống của ông: Thu ăn măng trúc, đông ngã giáXuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Câu thơ với nhịp 1/3/1/2 liên kết với nghệ thuật đối cho thấy nhịp điệu sinh hoạt đều đặn, thường xuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cùng lúc chỉ với 2 câu thơ mà tác giả đã vẽ nên bức tranh tứ bình thật lạ mắt: xuân – tắm hồ sen, hạ – tắm ao, thu – măng trúc, đông – giá. Ông ko lấy hoa cúc, phong, lựu,… để mô tả về các mùa như các thi sĩ khác: “Người lên ngựa, kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuốm màu quan sơn”Dưới trăng quyên đã gọi hèĐầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” [Nguyễn Du] Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật vô cùng giản dị, gần cận để làm nổi trội lên nét đặc thù riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn bao quanh tác giả, mang đậm thực chất thôn quê. Đấy là những sản vật do con người làm ra hoặc tự nhiên tặng thưởng. Sinh hoạt của ông cũng vô cùng ăn nhịp, tuần hoàn theo dòng chảy của thời kì: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhượng, bình dị của 1 bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được phục vụ đủ ko thừa cũng ko thiếu. Cuộc sống tuy có phần thanh đạm mà vô cùng nhàn nhã, giải phóng con người khỏi phường lợi danh, đem con người tới gần hơn với thiên nhiên, hòa hợp với vạn vật. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự gặp mặt với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV: Ao cạn vớt bèo cấy muốngĐìa thanh, phát cỏ, ươm sen Cuộc sống tự do, nhàn hạ, thung dung, tự tại nhưng mà biết bao bậc Nho sĩ ước mơ hướng tới. Nhàn đối với ông còn là xa vắng phương lợi danh, sang trọng để giữ cốt cách thanh cao: Ta dại ta tìm nơi vắng ngắtNgười khôn người tới chốn lao xao Nơi vắng ngắt và chốn lao xao là 2 hình ảnh tượng trưng cho 2 môi trường sống không giống nhau. Nơi vắng ngắt là nơi tự nhiên yên ắng, xa lánh cuộc đời đầy bon chen, đố kị, làm cho tâm hồn con người phát triển thành thanh thản. Ngược lại chốn lao xao là nơi cửa quyền “ra luồn vào cúi” bon chen, con người luôn tìm mọi cách để chèn lấn, hãm hại nhau hòng đạt được lợi danh. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối tài tình, Ta dại tìm nơi vắng ngắt đối với người khôn tới chốn lao xao. Hai vế hướng tới 2 cách sống không giống nhau: dại tìm về cuộc sống sơn cước, thung dung tự tại, nhàn thân, dại đó cơ mà hóa là dại khôn; khôn tìm tới chốn lao xao đua chen tranh dành, khôn đó lại thành dại. Nói về dại, khôn cũng được ông trình bày ở nhiều bài thơ khác: Khôn nhưng mà thâm độc là khôn dạiDại vốn hiền từ đó dại khôn Cách nói ngược đã khẳng định phương châm sống xa lánh nơi sang trọng, tìm nơi sống nhàn hạ để gìn giữ cốt cách thanh cao vốn có của mình, cùng lúc cũng là thái độ ko chạy theo lối sống bon chen lợi danh, sang trọng. Nhưng thực chất chữ Nhàn của Nguyễn Bỉnh khiêm lại có điểm rất khác với nho sĩ ẩn dật khác. Ông nhàn thân nhưng mà không phải nhàn tâm. Dù thân nhàn mà ông vẫn thấp thỏm nỗi lòng: Rượu tới cội cây ta sẽ uốngNhìn xem phú quý tựa mộng mị Câu thơ đã nhắc đế 1 điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu say mơ thấy mình được tới nước Hòe Nhai và tìm được cây công danh, phú quý. Khi thức giấc ông chỉ thấy trước mắt là 1 tổ kiến. Lấy điển tích ấy cho thấy thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông tìm tới rượu chẳng phải để uống xong để mơ giấc mộng công danh nhưng mà để tỉnh tảo, để nhìn thấy chân lí: phú quý cũng chỉ như 1 giấc mộng mị. Nhận thức ấy cho thấy phú quý lợi danh chẳng phải là cái đích rốt cục trong cuộc đời mỗi người, cái còn đó với con người mãi mãi chính là tư cách, phẩm giá cao đẹp. Hai cấu kết như 1 lời khẳng định vững chắc về ý nghĩa của triết lí sống nhàn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn là cách để gìn giữ tư cách, tu tâm dưỡng tính, có được sự nhàn hạ, dễ chịu trong tâm hồn. Cùng lúc ta cũng cần phân biệt “nhàn” ở đây là 1 triết lí, phương châm sống, nhàn là sự dễ chịu trong tâm hồn. Bài thơ với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngắn gọn, súc tích, tiếng nói thơ giản dị đã trình bày 1 cách đầy đủ, toàn vẹn triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đấy là lối sống thanh cao, khí tiết, hòa hợp, thuận theo thiên nhiên, cùng lúc tránh xa phường lợi danh. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh khi bấy giờ là lối sống hăng hái để gìn giữ tư cách trắng trong. 3. Triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn tản, sống hòa hợp với thiên nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên lợi danh. Quan niệm sống nhàn của vị Trạng Trình đó được trình bày qua bài thơ ” Nhàn” viết bằng chữ Nôm, rút trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”. ” Nhàn” là quan niệm sống, là lời hàn huyên về cuộc sống, thị hiếu tư nhân. Sau lúc dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần mà vua bác bỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn như 1 “lão nông tri điền đích thực”. Cuộc sống thuần phác, nhàn tản diễn ra hàng ngày với: “1 mai, 1 cuốc, 1 cần câu Thơ thẩn dầu người nào vui thú nào”. Nhịp điệu thơ thư thả như chính nhịp sống giữa thôn dã thanh bình với “mai”, “cuốc”, “cần câu”. Điệp từ “1” chỉ số đếm chi tiết tuần tự liệt kê ra các danh từ chỉ phương tiện lao động bình dị liên kết với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế chuẩn bị, chăm chút trong lao động. Từ láy “thẩn thơ” phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần phác, chân chất của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ “người nào” nói về mọi người mải lo “vui thú nào” trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những niềm vui tự nhiên, cây cối ko chút bận tâm với công danh, phú quý ở đời. Tâm cảnh thanh thản, nhàn hạ và niềm vui thanh lịch, thanh cao với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức đó. “Thu ăn măng trúc, đông ngã giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Cuộc sống thanh đạm từng ngày trôi qua cực kỳ dễ chịu với những món ăn quê kệch, dân dã “măng trúc”, “giá” do sức lao động của mình làm ra, cộng với nếp sinh hoạt phổ biến, giản dị “tắm hồ sen”, ” tắm ao”. Nghệ thuật liệt kê ở 2 câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống thanh đạm nhưng mà thanh cao với 4 mùa có những đặc thù riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ thiên nhiên, hệt như cách nói của 1 lão nông đích thực chứ chẳng phải là của 1 vị từng làm quan. Thú vui nhàn nhã mà ko làm mất đi vẻ đẹp tư cách và trí óc sáng ngời. “Ta dại, ta tìm nơi vắng ngắt Người khôn, người tới chốn lao xao”. Dại- khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao nhưng mà đi. Ở 2 câu thơ này, ta thấy được 2 cách sống trái ngược giữa “ta” và “người”. So sánh tương phản và giải pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa tư cách – lợi danh và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, đeo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, giành giật. Đi ngược với thói thường thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về “nơi vắng ngắt”, nơi ko người cày cục và cũng ko cần đi cày cục người. Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự dễ chịu, nhàn hạ của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của tư cách. Mặc người chọn “chốn lao xao” nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, ko có tình người. Cái “dại” của “ta” là cái “dại” của 1 bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cục, sống toàn vẹn từng ngày thanh thản, thanh nhàn theo thiên nhiên. Cái “khôn” của “người” là bằng lòng xả thân vào “chốn lao xao” để tìm ích lợi cho bản thân, u mê giữa thời thế mà người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng lợi danh. “Người’ nhìn cho “ta” là “dại” mà chắc gì “ta dại” và “người khôn”? Vị Trạng Trình của 1 thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là “dại” mà rất tỉnh ngủ trong chọn lọc cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ phát triển thành hóm hỉnh, chua cay mà chứa đựng 1 tầm nhìn minh mẫn, nổi trội lên vẻ đẹp tư cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhìn thấy cái khôn-dại đích thực ở đời. Sống thanh cao và chan hòa với thiên nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống trái lại với thiên hạ, ông đứng bên ngoài nhìn thói thường bon chen, ngươi lừa, ta gạt để giành giật phú quý. Bài thơ ” Nhàn”làm nổi trội tư cách, trí óc sáng ngời, 1 quan niệm sống thích hợp với cảnh ngộ xã hội có nhiều biểu lộ suy tàn thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, mà quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cảnh ngộ đó rất đáng quý, đáng được trân trọng, ca ngợi.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin bổ ích khác trên phân mục Tài liệu của Wiki Secret VN.

Tagshọc tập

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

Bài thơ Nhàn là 1 trong những bài thơ lừng danh của thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Mời các bạn cùng đi sâu phân tách bài thơ Nhàn để thấy được triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày qua tác phẩm.

Top 6 mẫu phân tách Nhàn hay nhất

Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là 1 cây đại thụ trong nền văn hóa thi ca Việt Nam. Trong bài viết này Hoatieu xin san sẻ các bài văn mẫu phân tách triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo. 1. Dàn ý triết lí sống nhàn trong bài thơ Nhàn I. Mở bài – Giới thuyết về quan niệm sống “nhàn” trong văn chương trung đại: Nhàn là triết lí sống, là phạm trù tư tưởng khá bình thường của con người trung đại, mỗi người lại có cách trình bày riêng. – Giới thiệu về thi sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm và quan niệm sống Nhàn của ông: Sống thuận theo lẽ thiên nhiên, hòa hợp với tự nhiên, cuộc sống bình dị, lánh đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong lành. II. Thân bài 1. Nhan đề. – “Nhàn” có tức là thảnh thơi, rảnh rỗi, nhàn hạ. Đây là tình trạng lúc con người có ít hoặc ko có việc gì phải làm, phải nghĩ suy. – “Nhàn: được biểu lộ ở 2 bình diện: Nhàn thân – sự nhàn rỗi tay chân, thân xác và nhàn tâm – sự dễ chịu, nhàn hạ trong tâm hồn. → Chữ “nhàn” trong bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhàn tâm, chứ chẳng phải nhàn thân. Khác với Nguyễn Trãi [trong bài Cảnh ngày hè] nhàn thân chứ ko nhàn tâm. 2. Nhàn là sự nhàn hạ, thung dung trong lòng với thú điền viên – Những hình ảnh bình dị, quen thuộc: mai, quốc, cần câu: Chỉ nhữung công tác lao động chi tiết của người dân cày quê đào đất, vụ xới, câu cá – Số từ “1” được lặp lại liên kết với phép liệt kê: Thể hiện công tác lao động bận bịu, nặng nhọc thường xuyên → Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với những công tác vất vả, nặng nhọc lấm láp – “Thơ thẩn”: Dáng vẻ thung dung, tự tại – Cụn từ “dầu người nào vui thú nào”: Phủ nhận những niềm vui đời thường nhưng mà thiên hạ tị nhau đeo đuổi. → Tâm thế của tác giả: Vui vẻ, xem những công tác vất vả đó là niềm vui điền viên. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận bịu, cực nhọc mà tâm hồn luôn thung dung, tự tại, dễ chịu. 3. Nhàn là quan niệm sống lánh đục về trong – Phép đối: Ta – người, dại – khôn, nơi vắng ngắt – chốn lao xao: Nhấn mạnh quan niệm và triết lí sống của tác giả. – Phép ẩn dụ: + Nơi vắng ngắt: Chốn làng quê thanh bình, tĩnh tại, chốn bình an của tâm hồn + Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, bề bộn giành giật, đấu đá. – Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của 1 tư cách thanh cao và cái khôn của những con người chuộc lợi → Cách nói hóm hỉnh pha chút mai mỉa, vừa để răn mình vừa để dạy đời. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen lợi danh, trở về với cuộc sống thôn quê giản dị, bình an. 4. Nhàn là sống thuận theo lẽ thiên nhiên – Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ – thu – đông: Gợi về tự nhiên làng quê Bắc bộ. – Thức ăn: Thu ăn măng trúc, đông ngã giá: Thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong thiên nhiên, mùa nào thức đó – Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: Sinh hoạt theo sự chỉnh sửa của tự nhiên, sống hòa vào cùng tự nhiên, thanh cao, giản dị. – Cách ngắt nhịp 4/3 rất ăn nhịp, cùng giọng điệu vui mừng thư thái: Gợi nhịp sống khoan thai, thung dung. ⇒ Quan niệm sống nhàn: Sống thuận theo thiên nhiên, tận hưởng những gì có sẵn trong tự nhiên, ko mưu cầu, bon chen. 5. Triết lí sống nhàn. – Sử dụng điển tích điển cố Thuần Vu Phần: Nhận ra phú quý chỉ là giấc mộng mộng mị ko có thật. – Động từ “nhìn xem”: Tâm thế ngửng cao đầu, đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm ⇒ Quan niệm sống nhàn: Coi vinh hoa phú quý chỉ là giấc mộng phù du, cái còn đó độc nhất vô nhị tư cách, tâm hồn của con người. Đưa ra bài học cho con người: Đừng đua chen theo vòng lợi danh nhưng mà hãy tìm tới cuộc sống thành thơi, thanh thản. III. Kết bài – Khái quát triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. – Liên hệ, mở mang: Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, triết lí sống Nhàn còn trình bày thâm thúy trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,.. 2. Phân tích triết lý sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ làm quan 8 5 sau ấy trở về ở ẩn. Bởi thế, thơ ca của ông thấm đượm triết lí sống nhàn. Sự nghiệp sáng tác của ông cho thấy quan niệm sống nhàn vô cùng phong phú, phức tạp. Và trong bài thơ Nhàn đã phần nào trình bày được sự phong phú về ý kiến sống đó. Trước hết, ý kiến sống nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm trình bày ở lối sống hòa hợp, thuận theo thiên nhiên: “1 mai, 1 cuốc, 1 cần câuThơ thẩn dầu người nào vui thú nào” Trong câu thơ đầu tác giả dùng điệp từ “1”, liên kết phép lặp cấu trúc: số từ cộng danh từ [mai, cuốc, cần câu] và nhịp thơ nhẹ nhõm 2/2/3 cho thấy nhịp độ đều đặn, thư thả của cuộc sống. Qua ấy thấy được phong độ sống bình dị, vui vẻ với thú điền viên. Ông đã sử dụng từ láy “thẩn thơ” vô cùng tài tình, cho thấy sự nhàn hạ, dễ chịu trong tâm hồn. Hai câu thơ đầu đã hé mở lối sống, quan niệm sống nhàn của Trạng Trình, nó được trình bày ở lối sống giản dị, thung dung, nhàn hạ, lánh xa cuộc sống đua chen vật chất, chức tước bình thường. Lối sống nhàn ấy tiếp diễn trình bày trong cung cách sống của ông: Thu ăn măng trúc, đông ngã giáXuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Câu thơ với nhịp 1/3/1/2 liên kết với nghệ thuật đối cho thấy nhịp điệu sinh hoạt đều đặn, thường xuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cùng lúc chỉ với 2 câu thơ mà tác giả đã vẽ nên bức tranh tứ bình thật lạ mắt: xuân – tắm hồ sen, hạ – tắm ao, thu – măng trúc, đông – giá. Ông ko lấy hoa cúc, phong, lựu,… để mô tả về các mùa như các thi sĩ khác: “Người lên ngựa, kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuốm màu quan sơn”Dưới trăng quyên đã gọi hèĐầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” [Nguyễn Du] Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật vô cùng giản dị, gần cận để làm nổi trội lên nét đặc thù riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn bao quanh tác giả, mang đậm thực chất thôn quê. Đấy là những sản vật do con người làm ra hoặc tự nhiên tặng thưởng. Sinh hoạt của ông cũng vô cùng ăn nhịp, tuần hoàn theo dòng chảy của thời kì: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhượng, bình dị của 1 bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được phục vụ đủ ko thừa cũng ko thiếu. Cuộc sống tuy có phần thanh đạm mà vô cùng nhàn nhã, giải phóng con người khỏi phường lợi danh, đem con người tới gần hơn với thiên nhiên, hòa hợp với vạn vật. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự gặp mặt với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV: Ao cạn vớt bèo cấy muốngĐìa thanh, phát cỏ, ươm sen Cuộc sống tự do, nhàn hạ, thung dung, tự tại nhưng mà biết bao bậc Nho sĩ ước mơ hướng tới. Nhàn đối với ông còn là xa vắng phương lợi danh, sang trọng để giữ cốt cách thanh cao: Ta dại ta tìm nơi vắng ngắtNgười khôn người tới chốn lao xao Nơi vắng ngắt và chốn lao xao là 2 hình ảnh tượng trưng cho 2 môi trường sống không giống nhau. Nơi vắng ngắt là nơi tự nhiên yên ắng, xa lánh cuộc đời đầy bon chen, đố kị, làm cho tâm hồn con người phát triển thành thanh thản. Ngược lại chốn lao xao là nơi cửa quyền “ra luồn vào cúi” bon chen, con người luôn tìm mọi cách để chèn lấn, hãm hại nhau hòng đạt được lợi danh. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối tài tình, Ta dại tìm nơi vắng ngắt đối với người khôn tới chốn lao xao. Hai vế hướng tới 2 cách sống không giống nhau: dại tìm về cuộc sống sơn cước, thung dung tự tại, nhàn thân, dại đó cơ mà hóa là dại khôn; khôn tìm tới chốn lao xao đua chen tranh dành, khôn đó lại thành dại. Nói về dại, khôn cũng được ông trình bày ở nhiều bài thơ khác: Khôn nhưng mà thâm độc là khôn dạiDại vốn hiền từ đó dại khôn Cách nói ngược đã khẳng định phương châm sống xa lánh nơi sang trọng, tìm nơi sống nhàn hạ để gìn giữ cốt cách thanh cao vốn có của mình, cùng lúc cũng là thái độ ko chạy theo lối sống bon chen lợi danh, sang trọng. Nhưng thực chất chữ Nhàn của Nguyễn Bỉnh khiêm lại có điểm rất khác với nho sĩ ẩn dật khác. Ông nhàn thân nhưng mà không phải nhàn tâm. Dù thân nhàn mà ông vẫn thấp thỏm nỗi lòng: Rượu tới cội cây ta sẽ uốngNhìn xem phú quý tựa mộng mị Câu thơ đã nhắc đế 1 điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu say mơ thấy mình được tới nước Hòe Nhai và tìm được cây công danh, phú quý. Khi thức giấc ông chỉ thấy trước mắt là 1 tổ kiến. Lấy điển tích ấy cho thấy thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông tìm tới rượu chẳng phải để uống xong để mơ giấc mộng công danh nhưng mà để tỉnh tảo, để nhìn thấy chân lí: phú quý cũng chỉ như 1 giấc mộng mị. Nhận thức ấy cho thấy phú quý lợi danh chẳng phải là cái đích rốt cục trong cuộc đời mỗi người, cái còn đó với con người mãi mãi chính là tư cách, phẩm giá cao đẹp. Hai cấu kết như 1 lời khẳng định vững chắc về ý nghĩa của triết lí sống nhàn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn là cách để gìn giữ tư cách, tu tâm dưỡng tính, có được sự nhàn hạ, dễ chịu trong tâm hồn. Cùng lúc ta cũng cần phân biệt “nhàn” ở đây là 1 triết lí, phương châm sống, nhàn là sự dễ chịu trong tâm hồn. Bài thơ với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngắn gọn, súc tích, tiếng nói thơ giản dị đã trình bày 1 cách đầy đủ, toàn vẹn triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đấy là lối sống thanh cao, khí tiết, hòa hợp, thuận theo thiên nhiên, cùng lúc tránh xa phường lợi danh. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh khi bấy giờ là lối sống hăng hái để gìn giữ tư cách trắng trong. 3. Triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn quan trường triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn tản, sống hòa hợp với thiên nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên lợi danh. Quan niệm sống nhàn của vị Trạng Trình đó được trình bày qua bài thơ ” Nhàn” viết bằng chữ Nôm, rút trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”. ” Nhàn” là quan niệm sống, là lời hàn huyên về cuộc sống, thị hiếu tư nhân. Sau lúc dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần mà vua bác bỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn như 1 “lão nông tri điền đích thực”. Cuộc sống thuần phác, nhàn tản diễn ra hàng ngày với: “1 mai, 1 cuốc, 1 cần câu Thơ thẩn dầu người nào vui thú nào”. Nhịp điệu thơ thư thả như chính nhịp sống giữa thôn dã thanh bình với “mai”, “cuốc”, “cần câu”. Điệp từ “1” chỉ số đếm chi tiết tuần tự liệt kê ra các danh từ chỉ phương tiện lao động bình dị liên kết với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế chuẩn bị, chăm chút trong lao động. Từ láy “thẩn thơ” phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần phác, chân chất của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ “người nào” nói về mọi người mải lo “vui thú nào” trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những niềm vui tự nhiên, cây cối ko chút bận tâm với công danh, phú quý ở đời. Tâm cảnh thanh thản, nhàn hạ và niềm vui thanh lịch, thanh cao với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức đó. “Thu ăn măng trúc, đông ngã giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Cuộc sống thanh đạm từng ngày trôi qua cực kỳ dễ chịu với những món ăn quê kệch, dân dã “măng trúc”, “giá” do sức lao động của mình làm ra, cộng với nếp sinh hoạt phổ biến, giản dị “tắm hồ sen”, ” tắm ao”. Nghệ thuật liệt kê ở 2 câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống thanh đạm nhưng mà thanh cao với 4 mùa có những đặc thù riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ thiên nhiên, hệt như cách nói của 1 lão nông đích thực chứ chẳng phải là của 1 vị từng làm quan. Thú vui nhàn nhã mà ko làm mất đi vẻ đẹp tư cách và trí óc sáng ngời. “Ta dại, ta tìm nơi vắng ngắt Người khôn, người tới chốn lao xao”. Dại- khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao nhưng mà đi. Ở 2 câu thơ này, ta thấy được 2 cách sống trái ngược giữa “ta” và “người”. So sánh tương phản và giải pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa tư cách – lợi danh và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, đeo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, giành giật. Đi ngược với thói thường thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về “nơi vắng ngắt”, nơi ko người cày cục và cũng ko cần đi cày cục người. Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự dễ chịu, nhàn hạ của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của tư cách. Mặc người chọn “chốn lao xao” nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, ko có tình người. Cái “dại” của “ta” là cái “dại” của 1 bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cục, sống toàn vẹn từng ngày thanh thản, thanh nhàn theo thiên nhiên. Cái “khôn” của “người” là bằng lòng xả thân vào “chốn lao xao” để tìm ích lợi cho bản thân, u mê giữa thời thế mà người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng lợi danh. “Người’ nhìn cho “ta” là “dại” mà chắc gì “ta dại” và “người khôn”? Vị Trạng Trình của 1 thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là “dại” mà rất tỉnh ngủ trong chọn lọc cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ phát triển thành hóm hỉnh, chua cay mà chứa đựng 1 tầm nhìn minh mẫn, nổi trội lên vẻ đẹp tư cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhìn thấy cái khôn-dại đích thực ở đời. Sống thanh cao và chan hòa với thiên nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống trái lại với thiên hạ, ông đứng bên ngoài nhìn thói thường bon chen, ngươi lừa, ta gạt để giành giật phú quý. Bài thơ ” Nhàn”làm nổi trội tư cách, trí óc sáng ngời, 1 quan niệm sống thích hợp với cảnh ngộ xã hội có nhiều biểu lộ suy tàn thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, mà quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cảnh ngộ đó rất đáng quý, đáng được trân trọng, ca ngợi.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin bổ ích khác trên phân mục Tài liệu của Wiki Secret VN.

Tagshọc tập

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Phân #tích #triết #lý #sống #nhàn #của #Nguyễn #Bỉnh #Khiêm

Video liên quan

Chủ Đề