Trùng sốt rét phát triển ở đầu trong cơ thể người

Khi bị muỗi đốt, ký sinh trùng sốt rét sẽ xâm nhập vào máu và phá hủy các tế bào hồng cầu mang oxy. Các triệu chứng ban đầu của sốt rét trông giống như bệnh cúm. Vì lý do này, đôi khi bạn sẽ bị nhầm lẫn hai bệnh, dẫn đến không điều trị kịp thời.

Việc chậm trễ trong điều trị đã dẫn đến nhiều ca tử vong thương tâm do sốt rét. Chính vì vậy, xét nghiệm là giải pháp duy nhất giúp phát hiện được trùng sốt rét đang tồn tại trong cơ thể. Nếu nghi ngờ bản thân đang có nguy cơ mắc bệnh, bạn nên đến các cơ quan y tế để tiến hành xét nghiệm ngay.

Thông tin về trùng sốt rét

Có tất cả 5 loại trùng sốt rét gây bệnh cho người:

  • Plasmodium falciparum [P. falciparum]
  • Plasmodium malariae [P. malariae]
  • Plasmodium vivax [P. vivax]
  • Plasmodium ovale [P. ovale]
  • Plasmodium knowlesi [P. knowlesi]

Trong đó, trùng sốt rét P. falciparum là nguy hiểm nhất, đe dọa đến tính mạng người bệnh. Bệnh nhân sốt rét falciparum nặng sẽ bị suy gan, thận, co giật, hôn mê và cuối cùng là tử vong.

P. vivax và P. ovale mặc dù ít nguy hiểm hơn nhưng cũng phá vỡ các tế bào hồng cầu, gây thiếu máu, vàng da ở người. Trong đó, chủng sốt rét P. ovale chưa xuất hiện ở nước ta.

Vòng đời của ký sinh trùng sốt rét

Ký sinh trùng sốt rét phát triển ở cả người và muỗi anophen cái. Mỗi khi tiếp xúc với hệ thống miễn dịch của người, chúng sẽ đưa ra hàng ngàn kháng nguyên khác nhau làm suy yếu và vượt qua hàng rào bảo vệ này dễ dàng.

Ký sinh trùng sốt rét cũng thay đổi qua nhiều giai đoạn, ngay cả khi đang ở trong vật chủ người. Ngoài ra, nó còn phát triển một loạt chiến lược nhằm gây nhầm lẫn, che giấu và làm hệ miễn dịch của người mất phương hướng.

Vòng đời của trùng sốt rét được thể hiện như sau:

  • Nhiễm sốt rét bắt đầu khi muỗi anophen nhiễm bệnh đốt một người, chúng tiêm ký sinh trùng Plasmodium vào máu.
  • Các ký sinh trùng này nhanh chóng đi vào gan người.
  • Sau đó, chúng sẽ nhân bản vô tính tại các tế bào gan trong 7-10 ngày tiếp theo. Vào thời gian này, người bệnh sẽ không có bất kỳ triệu chứng nào.
  • Sau khi thức tỉnh, các ký sinh trùng sẽ ra khỏi gan, đi qua tim, phổi đến mao mạch phổi và giải phóng vào máu, tiếp tục ký sinh tại các hồng cầu.
  • Tại tế bào hồng cầu, chúng nhân bản thêm nữa cho đến khi các hồng cầu vỡ ra, sau đó lại tiếp tục đi xâm chiếm tế bào hồng cầu khác. Chu kỳ này lặp đi lặp lại, gây sốt mỗi khi ký sinh trùng thoát ra và xâm chiếm các tế bào máu.
  • Một vài hồng cầu chứa ký sinh trùng không vỡ ra sẽ phát triển thành các giao tử. Các giao tử này lưu thông trong dòng máu. Khi muỗi đốt, chúng sẽ ăn các giao tử này và phát triển thành các thoa tử [ký sinh trùng ở dạng lây nhiễm] nằm trong nước bọt.
  • Cuối cùng, muỗi này lại đi đốt người và tiếp tục lây nhiễm cho người khác.

Bạn có thể tìm hiểu thêm: Bệnh sốt rét [do muỗi anophen đốt] là gì?

Sốt rét gây ra một loạt biến chứng đe dọa tính mạng nếu không được điều trị như:

  • Sưng mạch máu não hoặc sốt rét não.
  • Tích tụ chất lỏng trong phổi gây ra các vấn đề về hô hấp hoặc phù phổi.
  • Suy thận, gan hoặc lách.
  • Thiếu máu do sự phá hủy các tế bào hồng cầu.
  • Lượng đường trong máu thấp.

Các phương pháp xét nghiệm sốt rét

Soi máu qua kính hiển vi

Đây là xét nghiệm sốt rét phổ biến và chính xác nhất. Bác sĩ hoặc y tá sẽ lấy một ít máu của bạn và gửi nó đến phòng thí nghiệm. Kỹ thuật viên trải nó trên một tấm kính, nhuộm cho các ký sinh trùng trong máu hiện rõ lên và soi chúng dưới kính hiển vi.

Số lượng ký sinh trùng sốt rét trong máu của bạn thay đổi mỗi ngày. Cho nên, kết quả kiểm tra đôi khi sẽ trả về âm tính dù bạn đang mang trùng sốt rét. Vì lý do đó, bạn phải thực hiện lấy máu nhiều lần trong 2-3 ngày để có kết quả chính xác nhất.

Xét nghiệm chẩn đoán nhanh

Còn được gọi là xét nghiệm RDT [rapid diagnostic tests] hay xét nghiệm bằng kháng nguyên, đây là xét nghiệm dành cho bệnh nhân không cần lấy nhiều máu. Mẫu máu sẽ được lấy bằng cách chích ở đầu ngón tay và nhỏ vào que thử. Sự thay đổi màu sắc của que thử sẽ cho biết bạn có bị sốt rét hay không.

Tuy nhiên, phương pháp này không cho biết người bệnh nhiễm loại ký sinh trùng sốt rét nào và mức độ của nhiễm trùng. Vì thế, rất khó để điều trị cho bệnh nhân.

Xét nghiệm phân tử

Còn được gọi là xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase, nó giúp xác định loại ký sinh trùng chính xác nào gây bệnh. Từ đó, bác sĩ sẽ quyết định loại thuốc kê đơn phù hợp cho bệnh nhân. Xét nghiệm này là một lựa chọn tốt nếu máu của bạn có số lượng ký sinh trùng thấp hoặc kết quả xét nghiệm máu quá mơ hồ.

Xét nghiệm kháng thể

Mục tiêu của xét nghiệm này là tìm kiếm các kháng thể của ký sinh trùng sốt rét xuất hiện trong máu người bệnh.

Có một vài loại ký sinh trùng sốt rét có tính kháng thuốc. Từ phương pháp xét nghiệm này, bác sĩ sẽ tìm ra loại thuốc nào có tác dụng với bệnh nhân.

Xét nghiệm máu

Xét nghiệm máu là phương pháp sử dụng các phản ứng hóa học khác nhau với máu để xem mức độ nhiễm trùng nghiêm trọng ra sao. Đồng thời, kết quả sẽ giúp bác sĩ tiên đoán các vấn đề sắp xảy ra cho người bệnh như thiếu máu hay suy thận.

Bệnh sốt rét được điều trị trong bệnh viện và dùng thuốc dựa trên loại ký sinh trùng mà người bệnh nhiễm phải.

Trong một số trường hợp, thuốc không đủ mạnh đối với ký sinh trùng do kháng thuốc. Bác sĩ sẽ cần kết hợp nhiều thuốc với nhau hoặc thay đổi thuốc điều trị cho người bệnh.

Bạn có thể tìm hiểu thêm qua bài: Đi tìm cách điều trị sốt rét hiệu quả.

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Giai đoạn kí sinh ở trong tế bào gan, trong hồng cầu, kí sinh trùng sốt rét [KSTSR] phát triển qua các giai đoạn [tiêu bản nhuộm Giemsa - Romanovski]:

Trophozoite [còn gọi là thể: sinh dưỡng, tư dưỡng, dinh dưỡng, tự dưỡng]:

Trophozoite non [thể nhẫn - ring form]: 

Một merozoite  ngay sau khi xâm nhập vào hồng cầu, phát triển và hình thành không bào. 

Nhân của KSTSR màu đỏ, trông như mặt đá của nhẫn, thường ở chỗ vòng mảnh nhất. Bào tương của KSTSR màu xanh, như vòng nhẫn. Khoảng trống ở giữa là không bào, không bào lớn lên nguyên sinh chất bào tương dày lên, nhân to ra. Đặc điểm của thể nhẫn: bào tương mảnh, không có hạt sắc tố, giai đoạn này rất ngắn.

Dựa vào sự phát triển của nguyên sinh chất, người ta còn có thể chia thể nhẫn ra làm 3 giai đoạn: 

Nhẫn nhỏ xíu [tiny ring] hay còn gọi là R1: thể này độ dày nhất của nguyên sinh chất nhỏ hơn 1/2 đường kính nhân.

Nhẫn nhỏ [small ring] hay còn gọi là R2: thể này độ dày nhất của nguyên sinh chất lớn hơn 1/2 và nhỏ hơn đường kính nhân.

Nhẫn lớn [large ring] hay còn gọi là R3: thể này độ dày nhất của nguyên sinh chất lớn hơn đường kính nhân.

Trophozoite phát triển [thể amíp]:

Nguyên sinh chất bắt màu đậm hơn, có hạt sắc tố, có chân giả. Khối nguyên sinh chất to dần lên, càng to càng có nhiều hạt sắc tố. KSTSR ở giai đoạn này có nhiều hình thù kì dị, không nhất định, tùy thuộc vào sự cử động phóng chân giả của kí sinh trùng. 

Nhân to dần lên, không bào lúc đầu to, nhưng sau khi nguyên sinh chất dày lên, thì không bào dần dần thu hẹp lại, hoặc chia ra thành nhiều không bào. 

Để phân loại kí sinh trùng sốt rét người ta dựa vào hình thù chân giả: dài hay ngắn, không bào có một hoặc có nhiều. Giai đoạn này tương đối dài hơn cả.

Trophozoite già [dinh dưỡng già]:

Đến giai đoạn này không bào không còn nữa. Nguyên sinh chất là một khối đặc dày. Nhân to ra để chuẩn bị phân chia. Hạt sắc tố thường tụ lại thành đám.

Schizonte [còn gọi là thể phân liệt, thể liệt sinh hay thể ẩn cư]:

Schizonte non [phân chia non]: 

Nhân đã phân chia thành nhiều mảnh, nhưng nguyên sinh chất chưa phân chia.

Schizonte già [phân chia già]: 

Đến giai đoạn này nguyên sinh chất đã phân chia và chia đều cho các nhân hình thành các merozoite. Người ta thường dựa vào cách sắp xếp và số lượng của các merozoite trong hồng cầu để phân biệt các loại kí sinh trùng sốt rét. + Gametocyte [giao bào]:

Giao bào được hình thành từ các merozoite. Có giao bào đực [microgametocyte] và giao bào cái [macrogametocyte]. Hình thể giao bào đực và giao bào cái của mỗi loài kí sinh trùng khác nhau. Giao bào đực nhân to, xốp, màu đỏ nhạt, nguyên sinh chất màu xanh nhạt, hạt sắc tố màu nâu. Giao bào cái nhân đặc, nhỏ, gọn hơn, màu đỏ đậm hơn, hạt sắc tố nâu xẫm hoặc đen. Hình thể các loại giao bào ở mỗi loài kí sinh trùng sốt rét cũng khác nhau.

Giai đoạn phát triển trong cơ thể muỗi:

Giai đoạn kí sinh trùng sốt rét phát triển ở dạ dày, xoang cơ thể và tuyến nước bọt của muỗi [trên tiêu bản mổ muỗi]:

Gamete [thể giao tử]:

Giao tử hình thành từ giao bào được muỗi hút vào dạ dày. Giao tử đực [microgamete] có roi và giao tử cái [macrogamete] hình cầu.

Zygote [thể hợp tử]:

Zygote là sản phẩm của sự dung hợp giao tử đực và giao tử cái. Hợp tử hình cầu, không di động trong vòng 18 - 24 giờ đầu.

Ookinete [thể noãn]:

Thể zygote chuyển dạng kéo dài hình sâu có chiều dài 18 - 24 µm và di động được gọi là thể ookinete. Thể này di chuyển đến thành dạ dày muỗi và chui lọt qua lớp tế bào liên ra bên ngoài bề mặt dạ dày rồi định cư ở đó.

Oocyste [thể noãn bào]:

Thể ookinete chuyển dạng hình tròn thành hình cầu có lớp màng chun được gọi là noãn bào [oocyste - tế bào trứng]. Noãn bào tăng dần kích thước và xuất hiện trên dạ dày như những thể hình cầu trong - trong, có kích thước 40 – 80 µm. Trong noãn bào có nhiều hạt sắc tố. Sự phân bố, kích thước các hạt sắc tố và màu sắc của chúng là đặc điểm phân biệt từng chủng loại kí sinh trùng sốt rét.

Sporozoite [thoa trùng]:

Nhân và nguyên sinh chất của noãn bào phân chia thành các thể dạng hình kim gọi là thoa trùng [sporozoite]. Thoa trùng hình thoi có kích thước chiều dài khoảng 10 - 15 µm, có nhân ở trung tâm. Người ta ước tính mỗi noãn bào sinh sản và giải phóng ra khoảng 1.000 thoa trùng. Thoa trùng có thể bắt gặp ở trong xoang cơ thể muỗi và đặc biệt có nhiều ở tuyến nước bọt của muỗi trưởng thành.

Phân biệt hình thể của các loài Plasmodium giai đoạn kí sinh trên người.

Cho đến nay phương pháp phát hiện hình thể kí sinh trùng sốt rét bằng kĩ thuật lấy tiêu bản máu giọt dày và giọt đàn nhuộm giemsa [Romanovski] vẫn  coi là “chuẩn vàng” để chẩn đoán và phân biệt hình thể các loài Plasmodium.

P.falciparum:

Bình thường chỉ thấy thể nhẫn, thể giao bào ở máu ngoại vi. Các thể khác chỉ có thể thấy ở máu ngoại vi khi bệnh nặng [sốt rét nặng hoặc sốt rét ác tính] hoặc bệnh nhân có quá nhiều kí sinh trùng. Các thể khác không nhiều so với thể nhẫn.

Trophozoite non [thể nhẫn - ring form]: nhẫn nhỏ, trung bình từ 1,25 - 1,5 µm. Chiếm khoảng 1/5 - 1/6 đường kính hồng cầu. Nguyên sinh chất mảnh, nhiều khi rất khó nhìn thấy. Nhân tròn, gọn, đôi khi gặp thể nhẫn có hai nhân. Thể nhẫn thường nằm ở rìa hồng cầu, gặp 2 hoặc 3 nhẫn trong một hồng cầu.

Trophozoite phát triển [thể amíp]: nhỏ, chiếm 1/2 - 2/3 hồng cầu; hạt sắc tố tụ thành cục; ít cử động.

Trophozoite già [thể dinh dưỡng già]: nhỏ như thể amip, không bào mất sớm, nguyên sinh chất là khối đặc, nhân to ra, hạt sắc tố tụ lại thành từng đám.

Schizonte [còn gọi là thể phân liệt, thể phân chia, thể liệt sinh hay thể ẩn cư]: kích thước trung bình 4 - 5 m. Chiếm khoảng 2/3 hồng cầu. Tạo ra từ 8 - 32 merozoite [trung bình 18 merozoite]. Các merozoite rất bé, xếp lộn xộn.

Gametocyte [thể giao bào]: khi còn non, gần giống thể trophozoite già, chỉ khác là các hạt sắc tố không tập trung thành cục, mà rải rác. Khi đã trưởng thành có hình lưỡi liềm [quả chuối]. Kích thước giao bào 9 - 14 x 2 - 5 µm. Nhân thường ở giữa, xung quanh nhân có các hạt sắc tố. Nhuộm tiêu bản tốt, ta phân biệt được giao bào đực và giao bào cái. Giao bào đực có nguyên sinh chất nhạt, màu hơi hồng. Nhân không có giới hạn rõ rệt, hạt sắc tố thô, ít, màu nâu, rải rác từ giữa ra khắp thân. Giao bào cái màu xanh da trời hoặc xanh lơ, hạt sắc tố ít [không quá 18 hạt], tập trung vào giữa thân, xung quanh nhân.

Hồng cầu bị kí sinh: 

Quan sát dưới kính hiển vi quang học thông thường: những hồng cầu bị P.falciparum kí sinh nói chung hình dáng không thay đổi, kích thước bình thường, không nhạt màu. Nhuộm Azur và kiềm, thấy những hạt Maurer. Đó là những hạt to, thô, màu đỏ nâu hoặc nâu xẫm, hoặc đen, số lượng ít.

Quan sát trên kính hiển vi điện tử: những hồng cầu bị P.falciparum kí sinh thấy xuất hiện các gai, các gai lớn dần thành các nụ lồi [Knobs] [Hommel M., Semoff S., 1988]. Các nụ lồi có vai trò trong giả thuyết dính kết tế bào của cơ chế sinh bệnh sốt rét ác tính.

P.vivax:

Ở máu ngoại vi, có thể thấy tất cả các thể giai đoạn phát triển vô giới.

Trophozoite non [thể nhẫn - ring form]: lúc đầu kích thước không quá 1/3 đường kính hồng cầu. Chỉ có một nhân. Thường hay gặp thể này trong vòng 2 - 4 giờ đầu của cơn sốt. Từ 4 - 8 giờ, nhẫn có kích thước to hơn, khoảng 1/2 đường kính hồng cầu bình thường. Vòng nguyên sinh chất và nhân đều to hơn. Đôi khi có 2 - 3 thể nhẫn trong một hồng cầu.

Trophozoite phát triển [thể amíp]: thể này tồn tại từ 30 - 32 giờ. Có hình thù rất kì dị vì kí sinh trùng cử động và phóng chân giả. Ở những thể còn non, không bào rất lớn, một phía là nhân, một phía là khối nguyên sinh chất dày có chân giả. Hạt sắc tố nhỏ và ít. Khi thể amíp phát triển già hơn hình thù rất kì quặc: chân giả tua tủa ra tứ phía. Thường có một không bào lớn và những không bào nhỏ do các chân giả dính vào nhau tạo thành.

Trophozoite già [thể dinh dưỡng già]: kí sinh trùng co tròn lại, không còn chân giả nữa, không bào biến mất. Hạt sắc tố trong nguyên sinh chất to lên và nhiều hơn tụ lại thành từng đám. Kí sinh trùng chiếm gần toàn bộ hồng cầu. Nhân nằm ngoài rìa nguyên sinh chất.

Schizonte [còn gọi là thể phân liệt hay thể phân chia, thể liệt sinh]: thể này tồn tại từ 6 - 8 giờ. Mới đầu nhân phân chia sau đó nguyên sinh chất phân chia, rồi chia đều cho các nhân để tạo thành các merozoite. Số lượng các merozoite được tạo thành từ 8 - 22 [trung bình 12 merozoite]. Các merozoite nằm sát bên nhau ở trong hồng cầu. Các hạt sắc tố tập trung thành một cục tương đối chắc ở giữa, cũng có khi gặp 2 cục hoặc hạt sắc tố vẫn rải rác. Trong một hồng cầu đôi khi có 2 - 3 KSTSR cùng phát triển như nhau hoặc chênh nhau về giai đoạn [do thời gian xâm nhập vào hồng cầu của kí sinh trùng khác nhau]. Trong một hồng cầu có số lượng lớn merozoite có thể tới 30 - 40. Ranh giới giữa các kí sinh trùng trong hồng cầu không rõ.

Gametocyte [thể giao bào]: giao bào của P.vivax thường có hình tròn, nằm trong hồng cầu đã bị trương to. Giao bào cái to hơn giao bào đực. Giao bào đực có một nhân to, xốp nằm ở giữa khối nguyên sinh chất, màu xanh lơ nhạt. Trong nguyên sinh chất có nhiều hạt sắc tố màu nâu rải rác. Giao bào cái đã phát triển đầy đủ, chiếm toàn bộ hồng cầu. Nhân nhỏ, gọn, đặc và thường nằm ngoài rìa nguyên sinh chất. Phân biệt các thể giao bào với các thể trophozoite già rất khó khăn, nhất là khi giao bào cái chưa phát triển đầy đủ.

Hồng cầu bị P.vivax kí sinh: hồng cầu bị trương to biến dạng và nhược sắc, xuất hiện nhiều hạt nhỏ lấm tấm, màu đỏ, dải đều trong hồng cầu, gọi là hạt Schuffner.

P.malariae:

Trophozoite non [thể nhẫn - ring form]: hình dạng, kích thước giống như thể nhẫn của P.vivax . Nhưng chỉ có một thể nhẫn trong hồng cầu.

Trophozoite phát triển [thể amíp]: thể này phát triển chậm. Không hoạt động mạnh như P.vivax, do đó chân giả không rõ. Khi còn non có một không bào nhỏ ở gần nhân, dần dần mất đi, kí sinh trùng trở nên đặc. Thể này thường nằm vắt ngang hồng cầu như một dải khăn quàng. Hạt sắc tố khá nhiều, thô, tròn và xẫm, thường tập trung ở một bên rìa nguyên sinh chất, phía đối diện là nhân to và dài. Sau 50 - 60 giờ, kí sinh trùng chiếm toàn bộ hồng cầu, nhưng không bao giờ to quá một hồng cầu bình thường.

Trophozoite già [thể dinh dưỡng già]: hình  dải khăn, nằm vắt ngang hồng cầu. Hạt sắc tố ở một phía. Nhân dài ở phía đối diện.

Schizonte [còn gọi là thể phân liệt hay thể phân chia, thể liệt sinh]: sau khi hoàn thành sự phân chia, nhân và bào tương tạo ra được từ 6 - 12 merozoite [trung bình 8 merozoite]. Những merozoite tương đối lớn [1,5 - 1,7 µm]. Chúng xếp xen kẽ tương đối đều xung quanh một đám sắc tố như những cánh hoa.

Gametocyte [thể giao bào]: giao bào của P.malariae gần tương tự như giao bào của P.vivax. Chỉ khác là kích thước nhỏ hơn nằm trong hồng cầu không trương to, không thay đổi về hình dạng và màu sắc. Giao bào đực nhỏ hơn giao bào cái, có hạt sắc tố màu nâu. Giao bào cái có hạt sắc tố gần như đen.

Hồng cầu bị kí sinh: hồng cầu không trương to hơn hồng cầu bình thường. Không có sự thay đổi đặc biệt về hình dạng. Trong hồng cầu có những hạt Zieman, là những hạt thô, màu nâu đen, khó nhận dạng.

P.ovale:

Trophozoite non [thể nhẫn - ring form]: nhẫn của P.ovale  giống như nhẫn của  P.vivax, P.malariae, có kích thước từ 1/ - 1/3 đường kính hồng cầu, nhưng nhẫn P.ovale to hơn, nguyên sinh chất dày bao quanh nhẫn. Thường gặp 2 hoặc 3 nhẫn, thậm chí 4 nhẫn trong một hồng cầu.

Trophozoite phát triển [thể amíp]: có hình tròn hoặc hình bầu dục. Không có chân giả và không có không bào. Kích thước của thể này lớn, đôi khi chiếm toàn bộ hồng cầu.

Schizonte [còn gọi là thể phân liệt hay thể phân chia, thể liệt sinh]: sau khi hoàn thành sự phân chia tạo ra được 4 - 16 merozoite [trung bình 8 merozoite].

Những hạt sắc tố tụ lại thành từng đám, nhưng không nằm ở trung tâm hồng cầu như của P.malariae, mà xếp lộn xộn giữa các merozoite.

Gametocyte [thể giao bào]: giao bào P.ovale có hình dạng rất giống giao bào P.vivax. Để phân biệt 2 loại giao bào này, người ta thường dựa vào sự khác nhau về hình thể của hồng cầu có giao bào kí sinh.

Hồng cầu bị kí sinh: hồng cầu trương to, biến dạng, thường có hình góc nhọn hoặc hình bầu dục và mép của hồng cầu có hình tua [răng cưa]. Trên hồng cầu xuất hiện những hạt James.

Nhìn chung hình thể của P.ovale rất giống hình thể P.vivax, phân biệt hình thể hai loại KSTSR này tương đối khó.

Bảng so sánh hình thể của các loại kí sinh trùng sốt rét [Tiêu bản giọt mỏng nhuộm Giemsa - Romanovski]

Loại KST Đặc điểm

P.falciparum

P.vivax

P.malariae

P.ovale

1

2

3

4

5

Xuất hiện ở máu ngoại vi

Thường chỉ có thể nhẫn và giao bào. Khi bệnh nặng có thể thấy thể khác.

Tất cả các thể ở các giai đoạn.

Như P.vivax.

Như P.vivax.

Thể nhẫn

Mới đầu bằng 1/5 - 1/6 đường kính hồng cầu. Sau to lên bằng 1/3 - 1/2. Thường thấy 2 - 3 nhẫn trong một hồng cầu.

Kích thước bằng 1/3 - 1/2 đường kính hồng cầu. Đôi khi có 2 - 3 nhẫn trong một hồng cầu.

Hình dạng kích thước như P.vivax. Chỉ có một nhẫn trong một hồng cầu.

Hình dạng kích thước như P.vivax.

Thường thấy 2 - 3 nhẫn trong một hồng cầu.

Thể amíp

Hình tròn, nhỏ, chiếm

1/2 - 2/3 hồng cầu. Hạt sắc tố tụ lại cục to.

Hình dạng kì dị, to có chân giả dài. Có 1, 2 hoặc 3 không bào. Hạt sắc tố nhiều, nhỏ, hình gậy.

Hình tròn hoặc hình khăn. Không to hơn

hồng cầu. Hạt sắc tố tròn, thô, to.

Hình tròn hoặc bầu dục. Không có

chân giả và không bào. Kích thước

lớn, đôi khi chiếm cả hồng cầu.

Thể trophozoite già

To hơn hồng cầu bình thường.

Không có không bào, chân giả.

Nhân to chuẩn bị phân chia.

Hạt sắc tố tụ lại thành từng
đám.

Hình dải khăn vắt ngang hồng cầu. Hạt

sắc tố ở một phía. Nhân dài ở một phía.

Thể phân chia

Nhỏ, không quá 1/2 -2/3 hồng cầu. Tạothành 8 - 32 merozoite[trung bình 18].Merozoite rất bé xếp

lộn xộn

To hơn hồng cầubình thường. Tạothành 8 - 22merozoite [trungbình12]. Cácmerozoite xếp lộn

xộn

Không to hơn hồngcầu bình thường.Tạo ra 6 - 12merozoite [trungbình 8]. Cácmerozoite xếp thànhhình cánh hoa giữa

là cục sắc tố.

Không to hơnhồng cầu bìnhthường. Tạo ra 4 -16 merozoite[trung bình 8].Từng đám hạt sắctố xen kẽ với các

merozoite.

Thể giao bào

Hình quả chuối. Giaobào đực màu hồng tímnhạt. Hạt sắc tố rải rácgần đến 2 đầu. Giao bàocái màu xanh xẫm. Hạtsắc tố đen, thô tập trung

ở giữa bọc lấy nhân.

Hình tròn chiếmtoàn bộ hồng cầubị trương to. Giaobào đực có nhân toxốp. Giao bào cái

có nhân nhỏ, chắc.

Như của P.vivaxnhưng không to hơnhồng cầu. Hạt sắc tốtròn thô màu nâu ởgiao bào đực, màu

đen ở giao bào cái.

Như của P.vivaxnhưng không to hơnhồng cầu. Hạt sắc tốtròn thô màu nâu ởgiao bào đực, màu

đen ở giao bào cái.

Hồng cầu bị
kí sinh

Không trương to,không nhược sắc.Nhuộm azur và kiềm

có hạt Maurer.

Trương to, nhượcsắc có hạt

Schuffner

Không trương to,không nhược sắc, có

hạt Zieman

Trương to, hìnhbầu dục có méphình răng cưa. Có

hạt James.

Hình 8.2: Hình thể P.vivax  trên tiêu bản giọt mỏng.

Hình 8.3: Hình thể P.malariae trên tiêu bản giọt mỏng.

Hình 8.4: Hình thể P.ovale trên tiêu bản giọt mỏng.

Video liên quan

Chủ Đề