So sánh người trong bao và sống mòn năm 2024

Nam cao là một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, ông đi sâu vào chủ nghĩa hiện thực, lột tả hết những cái khốn khổ của lớp dân lành trong xã hội cũ từ người nông dân cho đến người trí thức. Hầu hết những tác phẩm ấy đều có cốt truyện là tấn bi kịch của cuộc đời nhân vật chính, tuy nhiên vẫn thấm đượm tính nhân văn sâu sắc trong từng câu chữ, đặc biệt là tấm lòng yêu thương đồng loại và Đời thừa chính là một tác phẩm như vậy.

Nam Cao [1917-1951], quê tại tỉnh Hà Nam, sống trong cảnh đất nước lầm than, đâu đâu cũng thấy cảnh nghèo đói tang thương, với nền tảng nghệ thuật vị nhân sinh, Nam Cao sớm ý thức được tinh thần Cách mạng, ông vừa tham gia chiến đấu vừa viết văn với vai trò là một nhà báo ở chiến trường. Trong đời viết văn của mình Nam Cao có rất nhiều quan điểm nghệ thuật đậm tính nhân văn và sâu sắc, ấn tượng nhất là câu nói: "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời". Rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống của con người, đi sâu vào cái bi kịch khổ đau để mà thấu hiểu cảm thông. Những tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao phải kể đến Chí Phèo, Đời thừa, sau cách mạng tháng tám thì cóĐôi mắt, tác phẩm đánh dấu sự thay đổi trong cách nhìn nhận và quan điểm nghệ thuật của nhà văn.

Đời thừa được viết và đăng báo lần đầu tiên vào năm 1943, đây là một tác phẩm đặc sắc của Nam Cao nói về số phận của giới tri trức trong nhưng năm trước cách mạng, được ví như một tác phẩm văn học dành cho cả loài người bởi nó đã vượt qua khỏi mọi ranh giới của lòng bao dung giữa người với người, đấy là thứ tình cảm đáng trân quý biết bao. Càng khẳng định được công việc làm nghệ thuật không phải chỉ làm qua loa đại khái cho có lệ, mà đó là cả một công trình dày đặc tâm sức mà người nghệ sĩ phải bỏ ra bao gồm cả máu và nước mắt. Nếu viết văn mà cẩu thả thì đó gọi là vô lương tâm, là bất lương, là đê tiện bởi tác phẩm là đứa con tinh thần bất diệt của nhà văn. Tất cả những điều kể trên đều được thể hiện trong tác phẩm Đời thừa mà nhân vật chính là Hộ, một trí thức có niềm đam mê văn học nhưng lại phải đi ngược lại với cái mong muốn của mình vì phải kiếm tiền cưu mang vợ con, điều đó đã đẩy Hộ vào tấn bi kịch cuộc đời, vào một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.

Câu chuyện mở đầu bằng ánh mắt của Từ, vợ Hộ nhìn anh bằng ánh mắt rụt rè mà trong đó là niềm thương yêu sự nhẫn nhịn, hình ảnh nhân vật Hộ hiện lên thật rõ nét, điều ấy cũng phần nào bao quát được cuộc sống hiện tại của Hộ. Đôi mày rậm chau lại, trán có nếp nhăn, đôi gò má cao bóng nhẫy, mũi cũng cao mà thẳng tắp, đôi mắt sáng hơi lồi. Tất cả những nét đó đem đến cho Hộ một vẻ "hốc hác" và "trông khắc khổ đến thành dữ tợn", đến cả người hàng ngày đầu ấp tay gối với anh cũng thấy sợ "Từ thấy sợ".

Nói đến Từ người phụ nữ có số phận bất hạnh, từng khóc cạn nước mắt, định chết cùng đứa con mới đẻ khi bị kẻ nhân tình sở khanh ruồng bỏ. Nhưng đời Từ đã chuyển sang một hướng khác, khi được Hộ một chàng trai tốt bụng lại yêu văn chương cưu mang, nhận làm vợ và trở thành một người mẹ, người vợ cam chịu, nhẫn nhịn. Nam Cao so sánh tình yêu của Từ dành cho chồng gần như tình cảm của một con chó đối với chủ nhân của nó. "Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm", suốt mấy năm trời Từ chưa một lần nào có ý nghĩ khác, hay cãi lại chồng, bởi đối với Từ, Hộ không chỉ là người cứu vớt cuộc đời mình ra khỏi vũng bùn lầy mà còn là người mà Từ phải mang ân suốt đời, thay cho cả mẹ gìa và con thơ của mình. Từ không có gì cả, Từ chỉ có đôi bàn tay trắng, sự dịu dàng đúng mực và lòng biết ơn sâu sắc nên dù có phải làm nô lệ cho Hộ, cô cũng chẳng từ nan.

Hộ thế nhưng cũng không sung sướng được bao lâu, bởi sau cái hành vi đầy nhân đạo của mình, cùng với tình yêu của vợ thì Hộ lại rẽ vào một con đường khác và đó không phải là lý tưởng của anh. Hộ nghèo, đúng vậy nhà văn thuở trước cách mạng làm gì có ai giàu, may mắn lắm thì đủ bữa ăn, bữa mặc, nuôi thân còn khó huống chi đến việc nuôi cả một gia đình, vừa vợ vừa mấy đứa con thơ dại đang chờ Hộ mang tiền về. Từ đây Hộ bước ra khỏi con đường viết văn chân chính với những tác phẩm tràn đầy tâm huyết, từ bỏ thứ hoài bão lớn lao mà anh từng theo đuổi cả tuổi trẻ, để viết những thứ văn chương mà theo anh là "toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi".

Hộ thấy xấu hổ đỏ cả mặt khi đọc lại những đoạn văn ấy, Hộ tự thấy sao mình khốn nạn quá, bất lương quá, sự cậu thả trong văn chương khiến Hộ thấy mình thật đê tiện. Suốt mấy năm trời Hộ không có một tác phẩm nào ra hồn, anh tự thấy mình thật thừa thãi trong giới văn chương nơi mà không cần "những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho" mà chỉ dung nạp những kẻ biết tìm tòi ra cái mới. Hộ nghĩ thế thế và thấy sao đau đớn quá, những suy nghĩ tự trách cứ mãi quẩn quanh trong cái đầu óc của một người đàn ông khắc khổ vì phải lo cơm áo gạo tiền và ti tỉ những thứ khác cho vợ con vừa phải vật lộn với nỗi đau trái lương tâm nghề nghiệp. Nhưng Hộ có thể quay lại với hoài bão của mình mà bỏ vợ con nheo nhóc được hay sao?

Lương tâm và trách nhiệm của một người chồng người cha không cho phép anh làm như vậy, Hộ tự an ủi mình bằng suy nghĩ cố gắng làm vài ba năm kiếm tiền cho đủ vốn để Từ buôn bán nhỏ, rồi anh sẽ rảnh rỗi để thực hiện tiếp ước mơ văn chương một cách tử tế nhất. Nhưng cuộc sống luôn nghiệt ngã như vậy khi mà những đứa con của hai vợ chồng cứ lần lượt ra đời, chúng cứ liên tục quấy khóc, bệnh vặt liên miên, khiến Từ gần như không còn đủ sức để lo thêm việc nào nữa. Nhà cửa ồn ào, khiến Hộ không thể tập trung mà viết một thứ nào cho ra hồn, đã nhiều lúc Hộ vì thấy bực dọc và uất ức trong lòng mà "đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn". Hộ ban đầu chỉ đi tìm mấy người bạn bàn về văn chương, uống đôi cốc bia cốc chanh giải khát, rồi đến khi đã vơi hết nhọc nhằn, khó chịu Hộ lại về nhà trong nỗi buồn miên man.

Nhưng dần dà Hộ đã thay đổi, Hộ đi ra ngoài và về nhà trong cái say mèm chẳng biết trời trăng rồi đổ ập xuống giường thiếp đi, Từ ở nhà đợi chồng phải rón rén lừa con ngủ mới dám thay áo quần và đắp chăn, kê gối cho chồng. Đấy là những hôm Hộ đã ngủ, còn có những buổi chẳng hiểu cớ sự gì, Hộ cũng về nhà trong men say rồi nhìn gườm gườm nhìn vợ, nói những lời như dọa trẻ con, Từ không dám nói lời nào, bởi cô nghĩ âu tất cả cũng do mình. Hộ dọa đuổi, dọa giết, chắc có lẽ vì túng quẫn và đau khổ quá mà Từ đã thốt ra những lời như vậy, đọc vào đôi khi ta cảm thấy đó không phải là lời thật lòng của Hộ, phải chăng Hộ chỉ đang đùa, đùa cho vơi bớt cái khổ tâm sầu não của anh, bởi ngữ điệu của câu nói trong lúc say khướt ấy chẳng mang tính điên cuồng nào cả, tưởng như Hộ chỉ đang dọa nạt mấy đứa con nít xíu xiu chưa biết gì.

Thế nhưng lúc tỉnh cơn say Hộ lại trở về là người cha người chồng mẫu mực, thương yêu vợ con như chưa từng có những lời nói hôm qua, riết rồi cũng thành quen Từ không giận nổi nữa. Bởi chính Từ cũng tự nghĩ rằng bi kịch của Hộ chính là do Từ mang đến, nhiều lần Từ muốn bồng con đi thật xa, có lẽ thế thì Hộ sẽ hết khổ, sẽ trở lại là chàng trai tươi sáng năm nào, chứ không phải gã đàn ông khắc khổ, rượu chè như bây giờ. Nhưng cái thứ tình cảm mềm yếu trong Từ đã giữ chân không cho Từ đi lấy nửa bước và Từ lại tiếp tục ở lại ngoan ngoãn chăm sóc chồng con bằng một tình yêu và sự hi sinh trung thành nhất. Từ nhớ đến lúc Hộ hôn hít, bế bồng các con, lúc Hộ xanh mặt thức đêm chăm sóc mình ốm bệnh, Từ nhận ra cả hai vợ chồng đều yêu và cần nhau đến mức nào, như vậy Từ càng không thể bỏ đi được, Từ sẽ ở lại đến tận cùng với chồng với con, đói rách cũng chẳng sao chỉ cần được ở bên nhau.

Câu chuyện lại tiếp tục tiến vào cái vòng luẩn quẩn của nó khi Từ nhắc đến tiền nhà, Hộ lại tỏ ra khó chịu, bởi biết bao nhiêu thứ cần đến tiền, mà tiền thì đã hết từ hôm mồng 10 đầu tháng. Hộ ân hận vì mình đã tiêu pha quá trớn để vợ con phải nheo nhóc, thậm chí đói, thế nên anh quyết tâm hôm nay lấy được tiền lương thì sẽ về thẳng nhà, ăn cơm với vợ con, mua thêm chút đồ ăn nữa và cứ thế Hộ nằng nặc đòi vợ phải đợi mình về ăn cơm. Thế rồi mọi chuyện lại chẳng được như Hộ nghĩ anh lại tiếp tục lao vào cuộc nhậu với bạn bè của mình, quên béng đi rằng vợ con anh đang háo hức chờ cha về trong mỏi mòn. Sáng hôm sau Hộ thức dậy tại nhà, anh giật bắn mình dáo dác đi tìm vợ, Hộ sợ Từ bỏ đi mất, bởi hình như anh lờ mờ nhớ ra hôm qua mình đã đánh và đuổi cả Từ đi nữa.

Thật may Từ vẫn ở nhà, ôm con thiếp đi trên chiếc võng, lúc này Hộ ân hận biết bao nhiêu, sao anh lại có thể làm như thế với người vợ tào khang chân yếu tay mềm, người chưa từng cãi anh một lời mà chỉ biết vâng dạ chăm sóc cho cha con anh ngày này qua tháng khác. Hộ khóc, khóc vì bất lực trước cuộc sống, khóc vì thương vợ cũng khóc cho cái bi kịch trái ngang của cuộc đời mình, anh đã làm khổ mình cũng làm khổ cả vợ con bởi cái bản ngã cái tự trách đầy tiếc nuối về hoài bão xưa kia. Thế mới nói co người chỉ thực sự làm tốt khi họ hoàn toàn chú tâm vào chúng, còn Hộ anh vừa muốn sống cho lý tưởng vừa muốn sống cho thực tế [kiếm tiền], mà hai thứ ấy nào có dung hòa được với nhau. Cuối bài lời ru con của Từ đã dấy lên nhiều suy nghĩ: "Ai làm cho gió lên giời,Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân..."

Cuộc sống đau khổ của vợ chồng Hộ có lẽ nguồn cơn to lớn nhất ấy là bối cảnh đất nước những năm trước cách mạng, cái xã hội ấy đã kìm kẹp người nông dân và người trí thức khiến họ phải sống trong kiếp vật vờ, đầy bi kịch, tiêu biểu là nhân vật Hộ, một trí thức với nhiều hoài bão ước mơ, nhưng cuối cùng vì sự khốn khó xuất phát từ tấm lòng thương người của mình mà phải đau khổ.

Truyện ngắn "Đời thừa" là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nam Cao về đề tài hiện thực xã hội trước Cách mạng tháng 8, năm 1945, ở đó ta thấy được một nghịch lý rất lạ, lòng nhân đạo của nhân vật cũng chính là sợi dây dẫn đến bi kịch cho chính cuộc đời họ, rồi từ trong cái bi kịch ấy ta lại thấy hiện lên những thứ tình cảm khác, ấy là tình vợ chồng, tình cha con, tình người. Và có lẽ ấn tượng nhất ấy là tấm lòng yêu văn chương sâu sắc đến day dứt của nhân vật Hộ, nhấn mạnh một quan điểm nghệ thuật rất tâm đắc của Nam Cao: Văn chương không được phép cẩu thả, cẩu thả là vô lương tâm, là đê tiện.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

3. Phân Tích Tác Phẩm 'Đời Thừa' - Bài 2

Nam Cao là một nhà văn lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông đem lại những giá trị lớn cho kho tàng văn chương Việt Nam. Tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” mà ông viết vào năm 1943 là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương của ông.

Tác phẩm đã thể hiện rõ hình ảnh của những trí thức nghèo. Với những hoài bão lớn lao đã bị nhấn chìm bởi chính cái nghèo đeo bám. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao. Phân tích tác phẩm truyện ngắn “Đời thừa” của Nam CaoTác phẩm “Đời thừa” nói về cuộc sống của một nhà văn, một trí thức nghèo. Nhà văn đó là một người có trách nhiệm với ra đình. Yêu vợ thương con và là một con người trung thực. Anh luôn ấp ủ trong mình những hoài bão lớn. Và thực sự nghiêm túc về công việc văn chương của mình. Anh có mong muốn viết nên một tác phẩm để đời. Một tác phẩm có thể làm lu mờ những tác phẩm khác cùng thời, và tác phẩm đó sẽ đoạt giải Nobel.

Nhưng một cái thực tế thực sự phũ phàng. Cuộc sống này dường như đã nhấn chìm giấc mơ ấp ủ của anh. Một cảnh đời với bao buồn lo suy nghĩ về cuộc sống. Làm quần quật suốt ngày để kiếm tiền, nhưng vẫn không đủ tiền để nuôi gia đình. Không có tiền để chạy chữa cho đàn con lúc ốm đau bệnh tật. Một hình ảnh người đàn ông, một người chồng, một người cha có lòng tự trọng rất cao. Nhân vật Hộ, được xây dựng nên thực sự là một người đàn ông mẫu mực trong cái xã hội đó. Anh rất khổ tâm trước cảnh cơ cực của gia đình, buồn rầu trước cảnh nhà túng thiếu. Và anh cũng thực sự buồn rầu khi vợ mình là Từ. Một người phụ nữ đau khổ với người tình cũ đã đến bên anh nhưng lại phải cùng anh chịu đựng sự cực khổ, vất vả lầm lũi.

Cuộc sống khổ cực, túng thiếu khiến cho Hộ không thể nào có thời gian viết lách văn chương một cách thanh thản. Và chính vì thế, Hộ viết nhanh, viết cẩu thả. Những tác phẩm văn của anh không được chỉnh chu, thậm chí là người ta đọc xong đã quên luôn. Hộ cảm thấy xấu hổ với chính bản thân mình. Cảm thấy thực sự tủi nhục vì nghĩ đến những hoài bão lớn lao của mình trước đây.

Có thể nói rằng trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ biết chịu đựng, nhẫn nhục, và càng hiểu chồng, thương chồng. Nhưng dường như ở Hộ là một nhà văn. Hộ như đã càng thấy hoàn cảnh sống thật là nặng nề, như không có lối thoát, một bi kịch thật sự. Văn sĩ Hộ có lúc nói ra miệng là vợ con làm khổ mình, nhưng trong thâm tâm anh biết không phải như vậy. Có lẽ chẳng biết trách ai, anh tự trách mình, xỉ vả mình. Gặm nhấm một mình nỗi bất bình và đau khổ.

Nhân vật chính trong tác phẩm là nhà văn. Chính vì vậy cho nên, tác phẩm đã thông qua cuộc sống và nhất là suy nghĩ của nhân vật Nam Cao. Như cũng đã đề cặp trực tiếp đến một vấn đề mà ông thường xuyên quan tâm. Đó chính là vấn đề sáng tạo nghệ thuật, quan niệm và yêu cầu của ông về văn chương. Hộ rất thiết tha với nghề văn. Sáng tạo văn chương là khát vọng, là lí tưởng của đời Hộ. Lúc đầu, Hộ coi khinh những lo lắng tùn mùn về vật chất. Dồn hết tâm sức vun trồng cho cái tài mỗi ngày một thêm nảy nở. Hộ đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Hộ biết đi vào nghề văn sẽ nghèo, sẽ khổ, nhưng Hộ chấp nhận. Và chính với văn chương cũng mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh được. Mỗi lần Hộ tâm sự với vợ nhân đọc được một đoạn văn hay cả.

Và để rồi khi Hộ đã phải viết cẩu thả cho nhanh những tác phẩm không ra sao để có thể có thêm tiền lo cho cuộc sống. Chính cái nghèo đói đã là Hộ trở thành một “kẻ đê tiện” trong văn chương. Và đây cũng chính là quan niệm của nhà văn Nam Cao gửi gắm vào đó. Người đọc như cũng đã chắc chắn đó cũng là mong ước. Là yêu cầu của Nam Cao về một tác phẩm hay, về văn chương. Văn chương đối với Hộ hay chính là nhà văn Nam Cao không chỉ là nghề mà còn là nghiệp. Một sự ràng buộc, một nhu cầu nội tại văn chương. Và cả về phương diện sáng tác cũng như thưởng thức. Là nỗi đau mà cũng là niềm vui, là hạnh phúc, tự nguyện của từng người.

Văn chương dường như đã được xem là lĩnh vực của tài năng, của sự liên tài. Ta như đã có thể thấy tác dụng cao quý của văn chương là nhân đạo hóa xã hội và cuộc sống ngày nay. Làm cho con người cảm thông với nhau, gần gũi nhau. Nhà văn Nam Cao dường như cũng đã phê phán nghiêm khắc bệnh cẩu thả trong văn chương. Xem những người viết văn cẩu thả là những tên bất lương. Ông viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.

Nam Cao cũng đã khẳng định quyết liệt và rất rõ ràng viết văn. Làm nghệ thuật là tìm tòi phát hiện, sáng tạo, và đặc biệt là phải không ngừng mang đến cho người đọc một cái gì lạ. Và đó chính là một cái gì mới, một cái gì độc đáo, mà điều này thì chỉ có tài năng và công phu mới làm được. Nam Cao viết rằng “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu. Biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”!

Có thể nói rang đó là quan niệm rất chính xác, một yêu cầu rất cao về văn chương. Là nhà văn là nhà nghệ sĩ tất nhiên phải biết “hành nghề” thì tất nhiên phải am hiểu về kĩ thuật. Phải “khéo tay” ở một mức độ nhất định, nhất là trong một số ngành nghệ thuật nào đó. Chẳng hạn như điêu khắc, biểu diễn âm nhạc rồi,… Nhưng dường như đối với các nhà văn, nghệ sĩ, về bản chất hoạt động mà nói.

Không phải là người thợ, cho dù là thợ khéo tay, làm theo những kiểu mẫu có sẵn. Làm theo “đơn đặt hàng” của người khác. Văn chương nghệ thuật là hoạt động tinh thần, là “Thôi thúc bên trong”. Dường như đó chính là tình cảm, tư tưởng không nén nổi của người nghệ sĩ cất lên thành lời, thành nhạc, thành tranh… Có lẽ đó chỉ có thứ văn chương “gan ruột”. Không viết ra không được đó mới rung động được tâm hồn người khác, mới có giá trị.

Hơn nữa, đặc biệt và quan trọng hơn thì trong lĩnh vực văn chương. Chỉ có thật, chân thành, chưa đủ, mà còn phải sâu sắc, phải mới, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Nếu như mà không sâu sắc, không phát hiện và tạo được cái mới, và không có được một cách nhìn mới. Và lại không tiếng nói mới, thì cũng không thể nào có được một chỗ đứng thật sự trong thế giới nghệ thuật. Nam Cao như trong lúc này cũng đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa và bi kịch của cuộc đời trong những cái tư tưởng chừng nhỏ nhặt, vô nghĩa hằng ngày ở xung quanh.

Dường như những cảnh bực bội, thương tâm trong gia đình mà Hộ và Từ đã trải qua. Lòng tự tin đến ngông nghênh và sự chán chường. Những ý nghĩ cao quý và lại quá tầm thường luôn giằng xé tâm trí Hộ trong khi cầm bút. Dường như cũng là chuyện thường tình, không có gì đáng nói. Nhưng qua tài năng và tâm hồn của Nam Cao đã trở thành nỗi đau, bi kịch của con người, của cuộc sống. Nỗi đau và bi kịch của con người thừa, của đời thừa.

Tác phẩm nào của Nam Cao luôn luôn đã khiến cho mọi người ta chú ý hơn. Nhìn sâu hơn vài cái bình thường, cái hằng ngày ở xung quanh và ở chính mình. Và phải như sống có ý thức hơn, nhân ái hơn. Kéo con người ra khỏi tình trạng nhỏ nhen, lố bịch, độc ác. Và đã lại tự bằng lòng một cách vô lối, tức là làm cho người ta “bất an” như là một nhà văn có tên tuổi đã nói về chức năng của văn chương vậy. Tác phẩm “Đời thừa” sau khi đọc xong, người đọc cảm thấy nó có một kết cấu rất tự nhiên. Một câu truyện ngắn không có cốt truyện và những sự việc hầu như diễn ra hầu như không có gì.

Nam Cao đã miêu tả về quá khứ bất hạnh của Từ. Nói về quá trình gặp gỡ nên duyên vợ chồng giữa Hộ và Từ. Miêu tả về cuộc gặp gỡ với bạn làng văn của Hộ. Nhưng xoáy sâu vào câu truyện đó chính là viết nên nỗi khổ tâm của một nhà văn nghèo đó là Hộ. Chính vì cuộc sống nghèo khổ mà đã không thể thực hiện được những nguyện vọng lớn lao của cuộc đời mình. Hộ đã không thể hoàn thành nổi một tác phẩm văn chương nào thực sự có giá trị.

Lẽ ra với một nhà văn yêu nghề, tâm huyết như Hộ. Mọi nỗ lực đều sẽ hướng tới việc viết văn, dành hết tâm huyết cho nghề viết văn. Thế nhưng cảnh đời cơ cực, một người chồng, một người cha bắt buộc phải lo lắng cho miếng cơm manh áo gia đình. Nhưng trong cái xã hội đó, việc nuôi sống cả gia đình với một người nghèo khó lại càng khó. Tất tưởi vì cuộc sống mưu sinh, luôn luôn bị cái cảnh nghèo quấy rầy, sự túng quẫn. Một trí thức cũng chính vì thế mà trở nên thô bỉ hèn kém, những mộng tưởng và những khát khao dần cũng lụi tàn.

Người đọc có thể nhân thấy tâm trạng của Hộ bị giằng xé một bên là khát khao sáng tạo. Vươn tới những đỉnh cao trong văn chương và bên kia là những đòi hỏi thực dụng, cấp bách của cuộc sống gia đình. Đó là sự vất vả và cả những thiếu thốn hàng ngày. Có thể thấy đặc sắc và chiều sâu của tác phẩm là ở sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ. Và còn nằm ở chất lượng những suy nghĩ của nhân vật chính phát ngôn cho tác giả về cuộc đời, về sáng tạo văn chương.

Những sự mới mẻ, những chiều sâu về suy nghĩ. Với cách tạo hình nhân vật, sự đơn giản trong lối văn chương đã khiến cho tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao diễn ra một cách rất tự nhiên. Tạo ra một sức hút đối với người đọc. Khi đọc “Đời thừa” của Nam Cao dường như người đọc sẽ có những cảm nhận vô cùng sâu sắc về những số phận nghèo khổ của tri thức trong xã hội xưa. Và những cảm thông sâu sắc về những số phận này.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

3. Phân Tích 'Đời Thừa': Bức Tranh Số 2

Trong năm 1943, nhà văn Nam Cao sáng tác truyện ngắn 'Đời Thừa'. Tác phẩm không chỉ làm chuẩn bị cho tiểu thuyết 'Sống Mòn' hoàn thành vào năm 1944 về mặt chủ đề, mà còn chia sẻ tâm trạng, tư tưởng sáng tạo gần gũi giữa cả hai. Cuộc sống của nhân vật chính, Hộ, một nhà văn trí thức nghèo, đầy khổ sở và mâu thuẫn, là hình ảnh chân thực về sự đau khổ trong sáng tác và cuộc sống.

Hộ, với hoài bão xây dựng tác phẩm có giá trị, phải đối mặt với những khó khăn về vật chất và tinh thần. Sự đau khổ từ cuộc sống nghèo đói, những áp lực gia đình, và mâu thuẫn nội tâm khi viết văn càng làm nổi bật tính nhân văn và đau thương của nhân vật. Nam Cao, thông qua tác phẩm này, thể hiện sự phê phán về bệnh cẩu thả trong văn chương và khát khao sáng tạo nghệ thuật đích thực.

Từ cuộc sống khó khăn, Hộ nảy sinh những suy nghĩ sâu sắc về giá trị của văn chương, về sự sáng tạo và nỗ lực vượt lên trên bất cứ khó khăn nào. Những điều này giúp tạo nên chiều sâu và sự mới mẻ cho tác phẩm Đời Thừa, làm cho độc giả suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống và nghệ thuật.

Đời Thừa không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là tấm gương phản ánh sự thật của xã hội, nâng cao nhận thức về giá trị của nghệ thuật và lòng đam mê sáng tạo trong bối cảnh khó khăn. Từ những nỗ lực của Hộ, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học về kiên trì, đam mê và tình yêu thương trong cuộc sống.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

4. Bài văn phân tích tác phẩm 'Đời thừa' số 5

Tác phẩm truyện ngắn độc đáo và nổi bật 'Đời thừa' được sáng tác vào năm 1943. Có thể xem đây là một trong những đóng góp quan trọng chuẩn bị đường cho tiểu thuyết nổi tiếng 'Sông Mòn' của nhà văn Nam Cao vào năm 1944. Tác phẩm vẽ nên hình ảnh của người trí thức sống trong đau khổ và những ước mơ bị nghiền ngập dưới gánh nặng của đói nghèo.

'Đời thừa' là câu chuyện về cuộc sống của một trí thức nghèo, một nhà văn. Hộ, nhân vật chính, là người trung thực và yêu thương gia đình. Anh ta có trách nhiệm với vợ con, là một nhà văn có tư duy đúng đắn, luôn nghiêm túc với nghề nghiệp và ước mơ sáng tạo tác phẩm có giá trị, nhưng thực tế đau lòng khi Hộ phải đối mặt với những cảnh đau khổ trong cuộc sống. Hộ phải vật lộn để kiếm đủ tiền nuôi sống gia đình, chăm sóc đám con nhỏ đáng yêu, ốm đau.

Người đọc sẽ thấy Hộ được xây dựng là một người đàn ông, chồng và cha có tinh thần tự trọng. Hộ đau lòng khi nhìn thấy gia đình mình trải qua những ngày khó khăn, đặc biệt là vợ anh, Từ, người đã chịu nhiều đau khổ từ quá khứ, đến với Hộ đầy tình thương, nhưng phải đối mặt với khó khăn, cô ấy vẫn kiên trì, vất vả. Hộ, mặc dù có ý chí làm việc chăm chỉ, nhưng vẫn không kiếm đủ tiền, và đó cũng là nguyên nhân khiến cho nhà văn Hộ phải viết vội vàng để kiếm sống, đó là thực tế khó khăn đã làm cho tác phẩm của anh trở nên cẩu thả, không để lại ấn tượng.

Trong hoàn cảnh như vậy, những người như Từ chỉ có thể chịu đựng, nhẫn nhục, thấu hiểu chồng. Nhưng với Hộ, một nhà văn, anh cảm nhận cuộc sống nặng nề, không có lối thoát, là một bi kịch thực sự. Văn sĩ Hộ có lúc trách móc vợ con làm khổ mình, nhưng thực tâm anh biết đó không phải là sự thật. Có lẽ anh tự trách mình, tự xỉ vả bản thân, giữ lấy nỗi bất bình và đau khổ.

Nhân vật chính trong tác phẩm là một nhà văn. Điều này gắn liền với tư duy và yêu cầu của nhà văn Nam Cao về nghệ thuật sáng tạo, quan điểm của ông về văn chương. Hộ đam mê với văn chương, xem nó như khát vọng và lý tưởng của cuộc sống. Mặc dù hiểu rằng làm văn sẽ nghèo, khó khăn, Hộ vẫn chấp nhận. Với Hộ, văn chương không chỉ là nghề, mà còn là sứ mệnh, một sự ràng buộc, nhu cầu nội tại. Văn chương mang lại cho Hộ niềm vui không gì sánh kịp. Mỗi khi Hộ chia sẻ với vợ về một đoạn văn hay.

Nhưng khi Hộ viết cẩu thả để kiếm sống, đó là lúc nghèo đói biến Hộ thành một 'kẻ đê tiện' trong văn chương. Điều này thể hiện quan điểm của Nam Cao về sự cẩu thả trong văn chương là điều đê tiện. Ông nói: 'Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện'. Nam Cao cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của sáng tạo nghệ thuật, sự khám phá, và đặc biệt là không ngừng sáng tạo để mang lại cái mới, cái độc đáo, điều này chỉ có tài năng và cống hiến mới thực hiện được.

Có thể nói rằng 'Đời thừa' có một kết cấu tự nhiên. Tác phẩm không có một cốt truyện chính xác, thay vào đó, tập trung vào suy nghĩ và đau khổ của Hộ. Sự giằng xé trong tâm trạng của Hộ, giữa khao khát sáng tạo và áp lực cuộc sống hàng ngày, tạo nên sức hút đặc biệt cho tác phẩm. Điều này là điểm độc đáo và sâu sắc của tác phẩm, thể hiện chất lượng suy nghĩ và tâm hồn của nhân vật chính, đồng thời là lời phê của Nam Cao về cuộc sống, sáng tạo văn chương.

Hình minh họa [Nguồn từ internet]

5. Bài phân tích văn 'Đời thừa' số 4

Đời thừa là một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, kể về cuộc sống trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng. Tác phẩm không chỉ thành công về nội dung mà còn ấn tượng với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Nam Cao độc đáo khi xây dựng tính cách nhân vật, bộc lộ mâu thuẫn nội tâm một cách sâu sắc. Hộ, nhân vật chính, được tạo hình đặc sắc, với giọt nước mắt là chi tiết đặc biệt quan trọng, thể hiện tinh tế và năng lực sáng tạo của nhà văn. Tấn bi kịch tinh thần của Hộ xoay quanh nghệ nghiệp và tình thương, tạo nên câu chuyện đầy cảm xúc và ý nghĩa. Gia đình là gánh nặng, nhưng cũng là nguồn động viên cho Hộ vượt qua khó khăn. Cuối cùng, giọt nước mắt của Hộ không chỉ là biểu hiện của yếu đuối, mà còn là vũ khí bảo vệ danh dự và nhân phẩm, làm nên sự độc đáo của tác phẩm Đời thừa.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

7. Phân Tích 'Đời thừa' - Một Cái Nhìn Số 6

Đời thừa, một tác phẩm ngắn của Nam Cao viết vào năm 1943, là một bức tranh về cuộc sống của nhà văn Hộ. Truyện khắc họa một cuộc sống đầy những khó khăn, những vất vả, và những niềm đau trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Hộ, một trí thức nghèo, đối mặt với những thử thách của cuộc sống, giữa khao khát sáng tạo và trách nhiệm gia đình. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện cá nhân của Hộ mà còn là bức tranh của những người trí thức, những người sống với ước mơ và đau khổ, tất cả được thể hiện qua ngôn ngữ tinh tế và sâu sắc của Nam Cao.

Đời thừa không chỉ là tác phẩm văn học mà còn là tấm gương phản ánh sự hi sinh, tâm huyết của những người theo đuổi nghệ thuật. Hộ, một nhà văn có tâm hồn tưng bừng, phải đối mặt với những thách thức không ngừng từ cuộc sống, nhưng vẫn giữ vững niềm tin và khao khát tạo nên những tác phẩm có giá trị. Từ những đoạn văn của Nam Cao, người đọc không chỉ hiểu về nhân vật Hộ mà còn cảm nhận được những xúc cảm sâu sắc, những suy nghĩ về nghệ thuật và cuộc sống.

Qua Đời thừa, Nam Cao chứng minh tài năng văn chương của mình và đồng thời để lại những dấu ấn về những nỗi đau, những đấu tranh của những con người trí thức trong xã hội. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về cuộc đời cá nhân mà còn là một phản ánh về xã hội, về tình người, và về ý chí kiên trì theo đuổi đam mê. Đời thừa, một tác phẩm văn chương có giá trị, để lại những suy ngẫm sâu sắc về ý nghĩa của nghệ thuật trong cuộc sống.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

7. Phân tích tác phẩm số 6: 'Đời thừa'

Nam Cao, một tác giả xuất sắc của văn học Việt Nam, đã sáng tác nhiều tác phẩm trong giai đoạn trước năm 1945. Trong số đó, Đời Thừa là một trong những tác phẩm nổi bật, cùng với Chí Phèo, thể hiện sâu sắc thực tế xã hội của thời kỳ đó.

Đối mặt với những vấn đề rối ren của xã hội, Nam Cao thường xuyên thể hiện khát vọng và tâm huyết của mình đối với hiện thực xã hội. Mỗi chi tiết trong tác phẩm là một tảng biểu tượng của nội tâm, là cách ông phản ánh xã hội một cách sâu sắc nhất. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh đầy mâu thuẫn mà còn là cuộc tố cáo về xã hội, nơi con người phải trải qua sóng gió và gánh chịu gánh nặng của cuộc sống.

Thụt vào mâu thuẫn qua cách xây dựng tình huống, Nam Cao muốn truyền đạt thông điệp về hiện thực xã hội khó khăn. Nhân vật Hộ, thông qua tấm gương bi kịch của mình, trở thành bức tranh sống động về những thách thức của thời đại, nơi người tri thức phải đối mặt với cuộc sống đói khổ, bị thúc đẩy vào bức tranh bi kịch của xã hội.

Với tất cả khát vọng và lý tưởng, những ước mơ đó tan biến trước áp lực của xã hội. Nhân vật Hộ, một nhà văn và người tri thức, bị mê hoặc bởi nghèo đói, đẩy ông vào tình cảnh vô tích sự, không thể đóng góp gì cho gia đình. Sự nghèo đói khiến những người tri thức trở nên tha hóa, không có lối thoát.

Nam Cao tài năng trong việc tạo hình nhân vật, thông qua phong cách sáng tạo, ông biểu lộ tâm trạng và nội tâm của nhân vật một cách tinh tế. Nhân vật Hộ thể hiện diễn biến tâm lý, ông giải thoát mình khỏi cuộc sống văn chương trong tác phẩm.

Sự nghèo đói đã làm cho những người nghệ sĩ trở nên buồn bã. Trước thực tế khó khăn, họ phải đối mặt với áp lực về tiền bạc và cơm áo hàng ngày, dần mất đi tâm hồn của nghệ sĩ. Chính sự nghèo đói biến những người làm nghệ thuật chân chính, phá vỡ những quy tắc mà họ đặt ra.

Nghèo đói làm cho những người nghệ sĩ chân chính trở nên tha hóa, họ phải đối mặt với áp lực về tiền bạc và cơm áo hàng ngày. Nam Cao sâu sắc vẽ hình ảnh những người tri thức bị tha hóa trong một xã hội nghèo đói.

Trước năm 1945, con người luôn phải trải qua khó khăn do nghèo đói, bị tha hóa. Những người nghệ sĩ chân chính cũng phải đối mặt với áp lực về tiền bạc và cơm áo hàng ngày, làm cho tâm hồn của họ bị mất đi.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

8. Phân tích tác phẩm 'Đời thừa' số 9

Nam Cao, một nhà văn hiện thực và nhân đạo của văn học Việt Nam, luôn dành suy nghĩ để hiểu sâu hơn về những khía cạnh đau khổ, thân phận bất hạnh của nông dân bị áp bức và người trí thức nghèo. Tác phẩm 'Đời thừa' là minh chứng cho tấm gương 'trí thức vô ngần' và là sự xuất sắc trong xây dựng tâm lý nhân vật của Nam Cao. Một trong những nhân vật đặc biệt trong truyện là Từ - người vợ bất hạnh của Hộ.

Trong 'Đời thừa', nhân vật Từ không chỉ được miêu tả chi tiết, mà xuất hiện qua những nét tả tinh tế của Nam Cao ở phần cuối tác phẩm. Môi trường đen tối, làn da xanh nhợt, đôi môi nhợt nhạt, đôi mắt có quầng thâm, má hóp lại, bàn tay lủng củng... Từ trở thành biểu tượng của sự mệt mỏi, lo lắng và suy tư về cuộc sống. Nét đẹp của người con gái trẻ đã phai nhạt, chỉ còn lại hình ảnh đau buồn của người phụ nữ.

Phân tích nhân vật Từ trong tác phẩm, chúng ta thấy Từ là người phụ nữ bất hạnh, mất mát vì tin vào tình yêu vô trách nhiệm. Phải đối mặt với bi kịch do phụ tình, Từ trở thành biểu tượng của sự đau đớn. Hình ảnh thương tâm của Từ sau khi bị bỏ rơi khiến độc giả không khỏi xúc động. Sinh con, Từ ôm con nhịn đói, người mẹ già bị mù đau khổ và bất lực trước cuộc sống, biến thịt thành nước mắt, cùng chết cả 'mẹ lẫn con'.

Nhân vật Từ tỏ ra là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, biết thấu hiểu, giàu lòng hi sinh, Từ luôn ân cần chăm sóc cho Hộ, dù Hộ đôi khi tàn nhẫn với mình. Từ không trách móc, mà thậm chí ân cần đối xử với Hộ, vì cô biết Hộ khổ là do mẹ con cô. Những cử chỉ chăm sóc, chuẩn bị nước ấm cho Hộ khi tỉnh dậy đều là biểu hiện của tình yêu thương và lòng vị tha.

Bị Hộ đối xử tàn nhẫn khi Hộ say, Từ vẫn giữ tình thương, không bỏ đi. Từ yêu chồng không chỉ là tình yêu mà còn là lòng biết ơn với Hộ, người đã cứu mang Từ khi cuộc sống cô bế tắc. 'Từ yêu chồng bằng thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó với người nuôi', là tình cảm chân thành tuyệt đối.

Phần cuối truyện, Hộ tỉnh dậy, hối hận về những hành động tàn nhẫn với vợ. Từ có hành động dịu dàng, yêu thương, làm cho Hộ tỉnh táo và thay đổi. Từ ru con qua những giọt nước mắt, là người giữ lại đau khổ để thấu hiểu cho chồng. Tình thương của Từ đã giúp Hộ thức tỉnh và thay đổi.

Tác phẩm của Nam Cao thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, đồng cảm với cuộc sống khó khăn của người phụ nữ như Từ, và trân trọng giá trị bên trong con người bất hạnh, khắc khổ.

Hình minh họa [Nguồn: Internet]

9. Phân tích tác phẩm 'Đời thừa' số 8

Nếu nói đến những tài năng lớn của văn học Việt Nam, ngoài các tên tuổi như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng... thì không thể không nhắc đến Nam Cao. Tác phẩm của ông để lại nhiều ấn tượng và suy ngẫm sâu sắc trong tâm trí độc giả, đặc biệt là những tác phẩm trước cách mạng tháng Tám. Điển hình cho đề tài về người trí thức là tác phẩm 'Đời Thừa'.

Trước hết, hãy cùng tìm hiểu về tên của tác phẩm này. Như chúng ta biết, tên của một tác phẩm là như một đứa con tinh thần của nhà văn, mang lại sự chú ý của độc giả và thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Ở tác phẩm này, tên 'Đời Thừa' không chỉ làm nổi bật sự chú ý của độc giả mà còn thể hiện tư tưởng nghệ thuật về nội dung. Nhà văn lựa chọn tên này để nói về cuộc sống bế tắc của người trí thức trong xã hội trước cách mạng. Cuộc sống không tạo điều kiện cho người trí thức và tác phẩm văn học của họ phát triển vì áp lực về cơm áo gạo tiền. Nhân vật Hộ thì lại thừa cả cuộc đời, cảm giác bất lực và vô nghĩa trước cuộc sống, thừa cả với người thân và chính bản thân mình.

Xuất phát từ tình hình này, tác phẩm hiển thị quan điểm sáng tạo văn học của Nam Cao.

Cuộc đời của nhân vật Hộ bị phân tích dựa trên hai bi kịch lớn: bi kịch nghệ thuật của nhà văn và bi kịch tình thương của anh đối với gia đình. Bi kịch nghệ thuật đầu tiên là quan điểm của Hộ trước khi gặp Từ, khi hoài bão của anh còn rất lớn. Đối với người nghệ sĩ như anh, đói rét không có ý nghĩa với một trái tim trẻ say mê lí tưởng. Lòng hảo tâm và tâm hồn trong sáng của anh đẹp. Đầu anh mang một ước mơ lớn: 'Cả đời tôi chỉ viết một tác phẩm, nhưng tác phẩm đó sẽ làm lu mờ tất cả những tác phẩm cùng thời, đoạt giải Nô-Ben và dịch ra mọi thứ tiếng trên thế giới'. Anh là một người nghệ sĩ chân chính, có quan điểm đẹp và sống có tâm hồn.

Khi Hộ kết hôn và có gia đình, bi kịch nghệ thuật bắt đầu với anh. Anh phải kiếm tiền nuôi gia đình bằng cách viết văn, nhưng áp lực đến từ cuộc sống hàng ngày khiến anh không thể đợi viết một tác phẩm cả đời. Anh đau khổ khi đọc lại những bài viết của mình, nhận ra rằng anh đã phải viết với những điều anh không muốn chỉ vì gia đình. Hộ tự cảm thấy xấu hổ và buồn bã mỗi khi đối diện với những sản phẩm văn chương của mình. Anh trải qua bi kịch của sự đau khổ và sự hy sinh cho nghệ thuật.

Nhìn chung, bi kịch của Hộ không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là bi kịch của xã hội thời đó. Giá trị con người, cuộc sống và tài năng trở nên vô nghĩa. Bi kịch của Hộ thể hiện sự đối nghịch giữa hoàn cảnh và phẩm giá con người. Hộ phải đối diện với bi kịch của một nghệ sĩ không thể phát triển tài năng vì áp lực cuộc sống và cũng phải đối mặt với bi kịch của tình thương.

Trước khi xảy ra bi kịch, Hộ coi trọng tình thương là tiêu chuẩn hàng đầu để định rõ nhân cách con người. Từ là một cô gái bị bỏ rơi, nhưng Hộ đã chấp nhận nuôi con của Từ và chăm sóc mẹ già mù lòa. Anh là một nhà văn giàu lòng nhân ái và tình thương. Chính tình thương khiến Hộ chấp nhận bỏ lỡ hoài bão lớn để kiếm tiền nuôi gia đình. Anh viết những tác phẩm mà anh tự cho là 'thứ hồ quấy loãng', chấp nhận trở thành một kẻ đê tiện để giữ cho gia đình có thêm thu nhập. Tuy nhiên, trong tâm hồn anh vẫn đau đớn vì hoài bão đã bị bỏ qua.

Nhưng khi nhận ra mình chỉ là một kẻ bất lương và đê tiện, Hộ lại đánh mất tình thương mà anh xây dựng và quan điểm sống của mình. Anh trở nên chán nản, tìm đến rượu bia và trở thành một người chồng vũ phu. Mặc dù sống trong sự đau khổ, nhưng Hộ không thể quên được nghệ thuật. Trong anh, có hai con người đối nghịch: một là con người văn chương và nghệ thuật, một là con người trong cuộc sống đời thường, là sự hi vọng và đau khổ u uất. Hộ thử nghiệm với rượu bia nhưng lại bị nó làm tăng đau đớn trong lòng anh. Hộ trở thành kẻ vũ phu và lại một lần nữa đối mặt với bi kịch. Mỗi khi tỉnh dậy, anh lại nhận thức rõ hơn về bi kịch của bản thân, hối hận vì đã xử sự thô bạo với người thân, chửi mắng bản thân và coi mình là một thằng khốn nạn.

Như vậy, chúng ta thấy một trong những bi kịch lớn của người tri thức thời kỳ đó. Hộ là một biểu tượng của những người tri thức, đối diện với sự bế tắc của cuộc sống. Anh ta biết rằng ước mơ lớn luôn tồn tại trong trái tim, nhưng ở xã hội đó, nó chỉ làm đau khổ người đang mơ ước. Một lần nữa, giá trị của hiện thực lại được thể hiện ở đây.

Hình ảnh minh họa [Nguồn: Internet]

10. Phân Tích Tác Phẩm 'Đời Thừa' - Bài số 10

Trong tác phẩm Trăng Sáng, Nam Cao tận tâm phê phán với sự thấu hiểu và sự tinh tế, coi 'ánh trăng giả dối' như một nghệ thuật lãng mạn thoát ly. Đối với Đời Thừa, ông không chỉ chỉ trích việc tả chân hời hợt mà còn phê phán sự 'chỉ tả dược cái bề ngoài xã hội'. Những suy nghĩ của nhà văn Hộ về cuốn sách Đường về, được ông diễn đạt qua nhân vật Hộ, là một lời nhận định đích đáng về giá trị của tác phẩm. Nam Cao nhấn mạnh rằng một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên mọi giới hạn và chia sẻ giá trị với toàn bộ loài người. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng thương, tình bác ái và sự công bằng trong một tác phẩm thực sự đáng giá. Những lời của nhân vật Hộ, dù có vẻ nổi bật giữa đám bạn văn, thực chất là những tuyên ngôn nghệ thuật sâu sắc và tiến bộ, đặt Nam Cao vào hàng những nhà văn xuất sắc nhất. Tư tưởng về nghệ thuật sáng tạo được diễn đạt qua nhân vật Hộ, thể hiện quan điểm cao cao cả về văn chương và trách nhiệm của người sáng tạo. Cuối cùng, truyện ngắn Đời Thừa không chỉ là một câu chuyện đơn giản, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, chứng tỏ tài năng và tầm vóc của Nam Cao - một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn.

Minh họa [Nguồn từ internet]

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]

Chủ Đề