Quyền công bố tác phẩm là gì

Ý nghĩa của việc công bố tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [52.68 KB, 3 trang ]

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Họ và tên: Lê Thị Hòa
Lớp: K24
Môn: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả

ĐỀ BÀI
Ý nghĩa pháp lý của việc công bố tác phẩm

Hà Nội 2019


Bài làm
Với mỗi tác giả hay chủ sở hữu một tác phẩm thì tác phẩm không những là
đứa con tinh thần mà còn mang đến những lợi ích vật chất,lợi ích kinh tế nhất
định. Chính vì vậy, họ luôn muốn hành động một cách tốt nhất. Công bố tác
phẩm là quyền nhân thân gắn với tài sản của tác giả, đây là một hành vi làm thay
đổi địa vị pháp lý của một tác phẩm. Từ một tác phẩm chưa công bố trở thành
tác phẩm đã công bố.
Vậy công bố tác phẩm là gì?
Công bố tác phẩm theo khoản 2 điều 22 nghị định 100/2006 quy định
Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm
quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phát hành tác phẩm
đến công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công
chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả.
Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu,
điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác
phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ


tác phẩm kiến trúc
Như vậy, công bố tác phẩm được hiểu là việc phát hành bản sao tác phẩm
đến công chúng, với số lượng đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tuỳ
theo bản chất của tác phẩm, với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Các
hành vi trình diễn một tác phẩm sân khấu, âm nhạc, trình chiếu tác phẩm điện
ảnh, đọc trước công chúng, phát sóng một tác phẩm văn học, trưng bày tác phẩm
tạo hình, xây dựng tác phẩm kiến trúc không được coi là công bố tác phẩm.
Quyền công bố này phải được chính chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu
cho phép thực hiện và được tự do lựa chọn thời gian địa điểm, phương thức
công bố tác phẩm [đặc biệt là đối với người nước ngoài].


Biểu diễn tác phẩm khác với quyền công bố bởi vì biểu diễn là việc tác giả
cho phép biểu diễn tác phẩm ở một nơi nào đó nhưng chưa tính là công bố vì
công bố phải tính là hành vi sao chép tác phẩm để đưa đến công chúng với số
lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng. Biểu diễn thì được thực hiện
với cả tác phẩm chưa công bố lẫn tác phẩm đã công bố.
Quyền công bố tác phẩm có những ý nghĩa pháp lý như sau:
Thứ nhất, quyền công bố tác phẩm không có ý nghĩa pháp lý như việc xác
lập quyền mà nó thay đổi chế độ pháp lý của một tác phẩm từ tác phẩm chưa
công bố sang tác phẩm đã công bố. Điều này liên quan tới những trường hợp
giới hạn quyền tác giả bởi giới hạn quyền tác giả [điều 25 và điều 26 Luật sở
hữu trí tuệ] chỉ áp dụng đối với những tác phẩm đã công bố. Đó là những trường
hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao hay nói cách khác đó là những trường hợp sử dụng hợp lý
như tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học giảng dạy của cá
nhân; trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa
cho tác phẩm của mình;...
Thứ hai, việc công bố tác phẩm có ý nghĩa nhằm xác định thời hạn bảo hộ
của tác phẩm. việc xác định một tác phẩm đã được công bố có nghĩa xác định

thời điểm công bố tác phẩm đó và đó là căn cứ để xác định thời hạn bảo hộ của
tác phẩm.
Thứ ba, việc xác định tác phẩm đã được công bố xác định giới hạn lãnh thổ
mà tác phẩm được bảo hộ bởi lẽ phạm vi bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh
thổ.
Như vậy, Công bố tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chính
tác giả và chủ sở hữu tác phẩm đó.



Video liên quan

Chủ Đề