Quan niệm về chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương

Xuất dương lưu biệt là bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân. Đó là sự quyết tâm và ý tưởng mới mẻ của Phan Bội Châu.

Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ trước hết là “phải lạ ở trên đời”. Đó là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn lao, phải chủ động xoay chuyển trời đất. Nhà thơ chuyển chữ “ta” thành chứ “tớ” . “Tớ” phản ánh được sự lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh nhưng thực ra đã bộc lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tich cực của tác giả. Cái tôi này không những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, với vận mệnh  của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của một người có chí khí.

Cái chí làm trai mà Phan Bội Châu nói trong bài thơ khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử, đất nước.

Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc. Rõ ràng tác giả tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm. Đây cũng chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương chúng ta có thể học tập và áp dụng vào thực tế cuộc sống của mình. Xuất dương lưu biệt

Đoạn kết của bài thơ với hai câu thơ tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng đã tung cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. 

Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán, với giọng thơ trang nghiêm hào hùng mạnh mẽ, lôi cuốn đã toát lên một chí khí phi thường không cam tâm làm nô lệ, quyết tâm đi tìm đường cứu nước. Đó không còn là lời nói mà đã biến thành hành động vượt biển Đông của Phan Bội Châu. Bài thơ là một khúc ca hùng tráng kêu gọi lên đường cứu nước mang giá trị khích lệ động viên, tuyên truyền cách mạng không chỉ đối với thế hệ thanh niên ở giai đoạn đó mà còn là lời nhắn nhủ chung đối với thanh niên các thế hệ sau.Xuất dương lưu biệt 

                          Làm trai phải lạ ở trên đời
                          Há để càn khôn tự chuyển dời

Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để còn khôn tự chuyển dời” vừa là câu hỏi tu từ vừa khẳng định, vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động của con người đối với vũ trụ như vậy thật tích cực, thật cách mạng. Câu thơ làm nội lực trong mỗi con người trỗi dậy để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi tỏ bày quan niệm về chí nam nhi, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về trách nhiệm của chính mình với thời đại của mình: “Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”. Hai câu thơ đó được Tôn Quang Phiệt dịch là:

                            Trong khoảng trăm năm cần có tớ
                            Sau này muôn thuở há không ai?

Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, trách nhiệm của cái “tôi” đối với thời đại như vậy chẳng khác nào một ngọn lửa giữa đêm đông, một cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái “tôi” hưởng lạc mà là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham gia vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái “tôi” như vậy quả là cứng cỏi, đẹp vô cùng.

Còn mối quan hệ giữa con người với muôn thuở thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên tài hậu cánh vô thùy?” [Sau này muôn thuở há không ai?] Hỏi nhưng thật ra là để khẳng định. Phan Bội Châu có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người đọc, kích thích vào ý thức trách nhiệm của mỗi con người, giục giã con người hành động, chuyển dời tự nhiên, chuyển dời xã hội. Đấy chính là thơ của một nhà cách mạng.

Sang hai câu luận, ông càng riết róng hơn về mối quan hệ giữa con người với non sông đất nước, giữa cuộc sống thực tại với sách vở của thánh hiền: Xuất dương lưu biệt

                             “Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế                           Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”                          [Non sông đã chết sống thêm nhục

                           Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.]

Phan Bội Châu sử dụng thủ pháp nhân hóa “non sông đã chết” khiến ta cảm thấy “giang sơn” [non sông] như một sinh mệnh, thật đau lòng.

                           Non sông đã chết sống thêm nhục

Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng chưa có ai nói lên một cách triệt để, thống thiết như vậy. Đem sự sống chết của cá nhân mà gắn liền với sự vinh nhục của non sông đất nước thì không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc vĩ đại. Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ nô lệ: Xuất dương lưu biệt

                           Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

 Không nên hiểu là Phan Bội Châu phủ định sách của thánh hiền, mà nên hiểu ông đã hành cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. 

Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.

Hai câu kết, tác giả thể hiện trọn vẹn chủ đề Xuất dương lưu biệt

                          “Nguyện trục trường phong Đông hải khứ                           Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”,                          [Muốn vượt biển Đông theo cánh gió

                           Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi].

Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của biển Đông sánh với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch rất hay, xứng với tinh thần của nguyên tác.

Hình tượng thơ làm hiện lên trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sục sôi , lạ là không vỗ vào bờ mà “nhất tề phi” [cũng bay lên]. Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ – nhà cách mạng. Xuất dương lưu biệt

Muốn hiểu được Phan Bội Châu mà chưa đọc được hàng ngàn trang thơ của ông thì trước hết chỉ cần đọc bài thơ Xuất dương lưu biệt. Một bài thơ nhỏ cũng cho ta thấy được chí nam nhi của người anh hùng, thấy được chí lớn muốn dời non lấp bể, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão lớn lao của một nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước. Xuất dương lưu biệt

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng…

Xuất dương lưu biệt là một khúc hát giục giã lên đường. Đề tài này có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.

Hai câu văn sau liên kết với nhau bằng cách nào [Ngữ văn - Lớp 5]

4 trả lời

Chí làm trai trong Lưu biệt lúc xuất dương là tài liệu tham khảo có lợi nhằm giúp các em học trò lớp 11 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi tri thức, biết cách phân tách các bước đi và hướng khắc phục vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đấy mau chóng viết thành 1 bài văn phân tách hoàn chỉnh, hay. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm phong phú thêm tri thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Lưu biệt lúc xuất dương.

1. Lược đồ tóm lược gợi ý

2. Dàn bài cụ thể

a. Mở bài:

– Sơ lược về Phan Bội Châu.

– Giới thiệu Lưu biệt lúc xuất dương.

b. Thân bài:

* Hai câu thơ đề: Quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới:

– Thân đại trượng phu sống ở trên đời phải tạo ra được chữ “lạ” cho riêng mình, ko cam chịu cuộc sống tầm thường mờ nhạt, nhưng phải có lý tưởng cao đẹp, những mong ước và hy vọng mập, tráng chí ở 4 phương.

– Dám tự thử thách bản thân mình vượt ra khỏi cái vòng an toàn, vượt qua được trở lực chi ly, được mất để đạt được những thành công mập, làm nên sự nghiệp hiển hách, phi thường, khác biệt nhưng hiếm kẻ làm được.

– “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Thể hiện ý chí mạnh bạo, thái độ hiên ngang, ý muốn thử thách, ngang tầm với vũ trụ, rằng thân trai tráng cần phải nắm chắc và tự quyết định lấy vận mệnh cuộc đời 1 cách quyết liệt và mạnh bạo.

* Hai câu thực: “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ/Sau này muôn đời há ko người nào” chính là nhận thức của tác giả về nghĩa vụ của người làm trai với quốc gia, dân tộc, là món nợ công danh cần phải đáp đền.

– Khoảng thời kì “trăm 5”,ẩn ý chỉ về 1 kiếp người và gợi nhắc về 1 thế kỷ bất định của dân tộc.

– “Trong khoảng trăm 5 cần có tớ” là ẩn ý của tác giả về tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phục hưng, bảo vệ quốc gia.

– “Sau này muôn đời há ko người nào?” lại là 1 câu hỏi ngỏ, trình bày sự hy vọng, cũng như sự động viên của tác giả đối với tầng phân khúc lớp các lứa tuổi thanh niên và ngày mai nữa.

* Hai câu luận: tầm nhận thức tiến bộ của 1 nhà nho yêu nước, 1 nhà cách mệnh kiểu mới trước tình hình dân tộc.

– “Non sông đã chết” đấy là cái chết của chủ quyền dân tộc, chủ quyền cương vực và sự suy vong của cơ chế phong kiến.

– “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”, nhìn thẳng vào vấn đề, vạch trần sự tụt hậu của nho học, vạch rõ nguyên cớ khiến quốc gia lâm vào trạng thái hèn yếu.

– Việc phủ nhận nền Nho học vốn đã gắn bó với mình bao lăm lâu đấy quả thật là nỗi chua xót cực kỳ mập của tác giả, nhưng mà với tư cách cũng như lý tưởng cao đẹp và lòng nỗ lực của 1 chí sĩ yêu nước, thì ko nỗi đau nào vượt qua được nỗi đau mất nước. Nhưng với nhân cách người làm trai, ông lại càng phải trình bày vai trò phục hưng Đất nước bằng trục đường hiện đại chứ chẳng hề là ôm mãi giấc mộng huy hoàng đã qua.

=> Thđấy được tâm hồn hào phóng, mạnh bạo và tự do của 1 chí sĩ yêu nước chân chính, chuẩn bị hy sinh tất cả, nén nhịn nỗi đau tư nhân vì ích lợi của dân tộc, của quốc gia, để hoàn trả món nợ công danh.

* Hai câu thơ kết: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” chính là hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển xa quê hương để tìm đến chân mây mới, học hỏi những tri thức mới để trở lại phụng sự cho Đất nước, dân tộc với phong độ hiên ngang và tự tin cực kỳ.

c. Kết bài:

– Nêu cảm tưởng.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích chí làm trai trong Lưu biệt lúc xuất dương của Phan Bội Châu dưới dạng 1 bài văn ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Phan Bội Châu là 1 trong những chí sĩ yêu nước trước nhất mở ra trục đường cho sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc theo thiên hướng dân chủ tư sản. Dù rằng sự nghiệp ko thành, nhưng mà ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về lòng yêu nước tha thiết và ý chí chiến đấu kiên trì, quật cường. 5 1904, ông cùng các đồng, chí của mình lập ra Duy Tân hội. 5 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để sẵn sàng lực lượng cốt cán cho cách mệnh và tranh thủ sự tương trợ của các thần thế bên ngoài. Trước khi lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để giã từ bằng hữu, đồng đội.

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.

Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,

Sau này muôn đời, há ko người nào?

Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Bằng giọng thơ nhiệt huyết có sức biến chuyển mạnh bạo, Lưu biệt lúc xuất dương đã khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mệnh Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo tợn, bầu tâm huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.

Khởi đầu bài thơ, tác giả nêu lên quan niệm về chí đại trượng phu: “Sinh vi nam tử yếu vi kỳ, Khẳng hứa hẹn càn khôn tự đi lại”. Tôn Quang Phiệt dịch là:

“Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời”

Phan Bội Châu nêu lên quan niệm về chí làm trai nhưng các nhà nho trứ danh đều nhất trí. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Chí đại trượng phu” cũng từng nói: “Thông minh nhất nam tử, Yếu vi người đời kỳ”. Làm đấng đại trượng phu trên đời này phải làm điều kì dị, kỳ tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải vùng vẫy dọc ngang, dời non lấp bể: “Há để càn khôn tự chuyển dời”

Phcửa ải là bậc anh kiệt trên đời này thì mới phát ngôn tương tự. Nội lực mạnh bạo phi thường. Con người muốn tham dự vào sự đi lại của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn hội thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự ảnh hưởng của con người đối với vũ trụ tương tự thật là hăng hái, thật là cách mệnh. Câu thơ làm thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham dự cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội.

Sau lúc tỏ bày quan niệm về chí đại trượng phu, về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về nghĩa vụ của chính mình với thời đại của mình. Trong 1 nền văn chương phi ngã [tôi] nhưng hiện lên 1 chữ “ngã” lừng lững, phải nói là “kì” [lạ]!

Nhận thức về sự hiện hữu của cái “tôi”, nghĩa vụ của cái “tôi” đối với thời đại tương tự chẳng khác nào 1 ngọn lửa giữa đêm đông, 1 cây tùng giữa băng tuyết. Không phải là cái “tôi” hưởng lạc nhưng là cái “tôi” hành động, cái “tôi” tham dự vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. “Giữa cuộc sống tăm tối của quốc gia khi đấy, có được 1 tinh thần về cái “tôi” như thể, quả là cứng cỏi, là đẹp cực kỳ, cũng như có được 1 tinh thần lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là thiết yếu, là cao cả cực kỳ” [Nguyễn Đình Chú].

Còn mối quan hệ giữa con người với muôn đời thì tác giả lại đặt ra câu hỏi “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?” [Sau này muôn đời há ko người nào?] Hỏi nhưng mà thật ra là để khẳng định. Tác giả có niềm tin vào chính mình, lại càng có niềm tin vào số đông, vào dân tộc. Thơ Phan Bội Châu xói vào tâm can người ta, kích thích vào tinh thần nghĩa vụ của mỗi con người, hối thúc con người hành động, chuyển dời thiên nhiên, chuyển dời xã hội. Đó chính là thơ của 1 nhà cách mệnh.

Tác ví thử dụng thủ pháp nhân hóa “quốc gia đã chết” khiến ta cảm thấy “sơn hà” [quốc gia] như 1 sinh mệnh, thật đau lòng.

Nhiều nhà Nho thức thời cũng đã nói lên nỗi nhục mất nước, nhưng mà chưa có nhà Nho nào nói 1 cách triệt để, thống thiết tương tự. Đem sự chết sống của tư nhân nhưng gắn liền với sự vinh nhục của quốc gia quốc gia thì ko còn nghi ngại gì nữa, Phan Bội Châu là nhà ái quốc lớn lao.

Sách vở của thánh hiền cũng chẳng rửa được vết nhơ bầy tớ: “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”

Câu thơ nguyên tác trực cảm mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”, [Hiền thánh đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi]. Viết tương tự thì đúng như cụ Huỳnh Thúc Kháng nói “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không nên hiểu là cụ Phan phủ định sách của thánh hiền, nhưng nên hiểu cụ Phan đã hành cái đạo của thánh hiền 1 cách minh mẫn, cái minh mẫn của 1 nhà cách mệnh. Nhưng có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào dạy các môn đồ ngồi “tụng” sách của quý vị khi mà nước mất dân bầy tớ đâu?

Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong 2 câu luận, tác giả tự dồn mình vào cái thế phải xuất dương cứu nước.

Hai cấu kết, tác giả trình bày toàn vẹn chủ đề “xuất dương lưu biệt”. Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt biển Đông theo cánh gió”, ko gian bao la của biển Đông sánh với chí mập của nhà cách mệnh. Câu thơ dịch hay, xứng với ý thức của nguyên tác. Nhưng cấu kết “Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” thì được cái tình của nước non đối với người ra đi, chứ ko sát với nguyên tác.

Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng nghìn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ là ko vỗ vào bờ nhưng “nhất loạt phi” [cũng bay lên]. Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng trình bày được ý thức phấp phới, tâm huyết, thăng hoa của thi sĩ nhưng cũng là nhà cách mệnh.

Muốn hiểu được nhà ái quốc lớn lao Phan Bội Châu nhưng chưa đọc được hàng nghìn trang trứ tác của cụ thì tốt hơn hết là đọc bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. 1 bài thơ bé cũng cho ta thấy được chí đại trượng phu của người người hùng, thấy được chí mập muốn dời non lấp bể, thấy được tinh thần nghĩa vụ của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm chết sống, vinh nhục, thấy được hoài bão mập lao của 1 nhà chi sĩ muốn cứu dân cứu nước.

3.2. Bài văn mẫu số 2

Xuất dương lưu biệt là bài thơ khẳng định chí làm trai và nỗ lực làm nên sự nghiệp mập cứu nước cứu dân. Ấy là sự nỗ lực và ý nghĩ mới mẻ của Phan Bội Châu.

Cái chí làm trai nhưng thi sĩ đề cập trong bài thơ trước tiên là “phải lạ ở trên đời”. Ấy là 1 lí tưởng sống, 1 khát vọng mập lao. Đấng đại trượng phu phải làm được những việc mập lao, phải chủ động xoay chuyển trời đất. Nhà thơ chuyển chữ “ta” thành chứ “tớ”. “Tớ” đề đạt được sự sáng sủa, trẻ trung. Hai câu thơ trên hình như có chút nghênh ngang nhưng mà thực ra đã biểu hiện thâm thúy về cái tôi tư nhân hăng hái của tác giả. Cái tôi này chẳng những khẳng định nghĩa vụ đối với hiện nay, với vận mệnh của quốc gia nhưng còn khẳng định trách nhiệm với lịch sử. Ấy là tư thế của 1 người có chí khí.

Cái chí làm trai nhưng Phan Bội Châu nói trong bài thơ khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống tinh thần được vai trò, nghĩa vụ của mình đối với lịch sử, quốc gia.

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.

Trong khoảng trăm 5 cần có tớ,

Sau này muôn đời, há ko người nào?

Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Phcửa ải là bậc anh kiệt trên đời này thì mới phát ngôn tương tự. Nội lực mạnh bạo phi thường. Con người muốn tham dự vào sự đi lại của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” vừa là câu hỏi tu từ vừa khẳng định, vừa muốn hội thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự ảnh hưởng của con người đối với vũ trụ tương tự thật hăng hái, thật cách mệnh. Câu thơ làm nội lực trong mỗi con người trỗi dậy để họ tham dự cải tạo thiên nhiên, cải tạo xã hội.

Cánh buồm giăng giữa muôn trùng nghìn khơi hình thành 1 hình ảnh cực kỳ lãng mạn. Ý chí của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cũng tựa như con thuyền đấy, ra khơi giữa mây nghìn sóng nước, trước mặt với muôn vàn thách thức; nhưng mà ra đi với tâm điểm tốt mẽ; ko lo sợ sóng gió.

Câu thơ “thiên trùng bạch lãng nhất loạt phi” được dịch tức là “muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”, câu thơ dịch nghĩa chưa sát với nguyên tác, hình ảnh còn bay bổng, lãng mạn hoá; làm giảm đi ý thức mạnh bạo, ý chí nỗ lực ra đi cứu nước. Hình ảnh đối lập giữa sự bé nhỏ của con người với sự rộng lớn của vũ trụ hình thành hình tượng sử thi, hình thành 1 bức tranh cực kỳ hoành tráng với nguyện vọng bay lên, hình thành 1 chân mây mới. Câu thơ cũng khẳng định sự nỗ lực, tự tin về sự chỉnh sửa trong mai sau.

Trang thơ của nhà ái quốc Phan Bội Châu với hình ảnh đấng đại trượng phu muốn làm trái lại với quy luật thiên nhiên, cái tôi tư nhân cộng với nghĩa vụ với Đất nước. Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, giọng văn hào sảng, mạnh bạo đã hình thành hình ảnh phi thường của người chí sĩ ra đi cứu nước. Bài thơ đã hình thành 1 luồng gió mới trong thơ văn, 1 vài ca mới trong trận chiến chống quân xâm lăng Pháp đầu thế kỉ XX.

Chí làm trai của Phan Bội Châu ko chỉ có ý nghĩa trong thời khắc đấy nhưng tới thế kỉ XXI hay mãi mãi về sau, đấy là bài học, là tấm gương cho lớp lớp lứa tuổi về ý thức dân tộc, tinh thần nghĩa vụ; biết chống chọi với gian truân, thách thức; loại trừ cái tôi tư nhân để xong xuôi trách nhiệm với Đất nước.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

Phân tích vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của đối tượng trữ tình trong bài Lưu biệt lúc xuất dương

338

Cảm nhận bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương của Phan Bội Châu

13069

Phân tích bài thơ Lưu biệt lúc xuất dương của Phan Bội Châu

9679

[rule_2_plain] [rule_3_plain]

#Chí #làm #trai #trong #Lưu #biệt #lúc #xuất #dương

Video liên quan

Chủ Đề