Phổi người trưởng thành có bao nhiêu fan?

Các phép đo lưu lượng và thể tích phổi có thể được sử dụng để phân biệt rối loạn thông khí tắc nghẽn và rối loạn thông khí hạn chế, để xác định mức độ nặng và đánh giá đáp ứng điều trị. Các phép đo thường được thể hiện dưới dạng các giá trị lưu lượng và thể tích tuyệt đối hoặc tỉ lệ phần trăm so với các giá trị dự đoán được lấy từ dữ liệu thu được từ các quần thể lớn được cho là có chức năng phổi bình thường. Các biến được sử dụng để dự đoán các giá trị bình thường bao gồm tuổi, giới tính, chủng tộc và chiều cao.

Liệu có nên chỉnh sửa cho phù hợp với dân tộc hay không là một việc đang gây tranh cãi. Ví dụ, các nhóm lịch sử gồm những người trưởng thành chủ yếu là người Mỹ và châu Âu cho thấy thể tích phổi ở nhiều nhóm dân tộc không phải là người Da trắng [ví dụ: Người da đen, người gốc Tây Ban Nha, người châu Á] thấp hơn so với người da trắng. Tuy nhiên, các yếu tố môi trường và các yếu tố không di truyền khác được một số người cho là quan trọng ngang bằng hoặc quan trọng hơn sự khác biệt về di truyền trong việc giải thích những khác biệt này. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các giá trị lưu lượng và thể tích không được điều chỉnh có khả năng dự đoán kết cục của bệnh nhân nhiều hơn các giá trị được điều chỉnh theo dân tộc, điều đó cho thấy rằng những điều chỉnh này có thể dẫn đến việc không nhận dạng [và do đó không được điều trị] các suy giảm chức năng phổi thực sự ở những người không phải Da trắng.

Giá trị dự đoán PFT

Công cụ tính toán lâm sàng

Công cụ tính toán lâm sàng

Công cụ tính toán lâm sàng

Công cụ tính toán lâm sàng

Lưu lượng thở

Các phép đo định lượng về lưu lượng hít vào và thở ra được thu nhận từ đo chức năng hô hấp gắng sức. Sử dụng kẹp để bịt hai lỗ mũi.

Trong đánh giá lưu lượng thở ra, bệnh nhân hít vào càng sâu càng tốt, ngậm chặt môi họ xung quanh ống ngậm và thở ra mạnh hết sức và hết mức có thể vào một thiết bị ghi lại thể tích thở ra [dung tích sống gắng sức [FVC]] và thể tích thở ra trong giây đầu tiên [dung tích sống gắng sức trong 1 giây [FEV1] – xem hình ]. Hầu hết các thiết bị hiện đang sử dụng chỉ đo được lưu lượng khí và thời gian để từ đó ước tính thể tích khí thở ra.

Trong đánh giá lưu lượng và thể tích khí hít vào, bệnh nhân thở ra hết mức có thể, sau đó hít vào hết sức.

Những nghiệm pháp này cho ra một số chỉ số:

  • FVC: Lượng khí tối đa mà bệnh nhân có thể thở ra hết sức sau khí hít vào hết sức

  • FEV1: Thể tích khí thở ra trong giây đầu tiên

  • Lưu lượng đỉnh [PEF]: Lưu lượng khí tối đa khi bệnh nhân thở ra

FEV1 là chỉ số lưu lượng đặc biệt hữu ích trong chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân có rối loạn hô hấp [ví dụ: hen suyễn Hen Hen suyễn là một bệnh viêm đường hô hấp gây ra bởi một loạt kích thích dẫn đến co thắt phế quản hồi phục hoàn toàn hoặc một phần. Triệu chứng và dấu hiệu bao gồm khó thở, tức ngực, ho, thở khò... đọc thêm , COPD Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD] Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD] đặc trưng bởi sự giới hạn về luồng khí thở gây ra do đáp ứng viêm do hít phải các chất khí độc hại, thường là khói thuốc lá. Thiếu alpha-1 antitrypsin và... đọc thêm

].

FEV1 và FVC giúp phân biệt rối loạn thông khí tắc nghẽn và rối loạn thông khí hạn chế. Một chỉ số FEV1 bình thường sẽ có thể loại trừ bệnh phổi tắc nghẽn không hồi phục trong khi một chỉ số FVC bình thường có thể loại trừ một bệnh lí rối loạn thông khí hạn chế.

Hô hấp kí bình thường.

FEF25–75% = lưu lượng khí thở ra gắng sức trong khoảng từ 25 đến 75% FVC; FEV1 = Thể tích khí thở ra gắng sức trong giây đầu tiên khi đo dung tích sống gắng sức; FVC = dung tích sống gắng sức [lượng khí thở ra tối đa sau khi hít vào tối đa].

Lưu lượng khí thở ra gắng sức trung bình trong khoảng thời gian 25-75% FVC có thể là dấu hiệu nhạy hơn khi đánh giá giới hạn luồng khí trong đường thở nhỏ so với FEV1, nhưng khả năng lặp lại của chỉ số này là rất thấp.

Lưu lượng đỉnh [PEF] là lưu lượng tối đa trong quá trình thở ra. Chỉ số này được sử dụng chủ yếu để theo dõi tại nhà cho bệnh nhân hen suyễn Hen Hen suyễn là một bệnh viêm đường hô hấp gây ra bởi một loạt kích thích dẫn đến co thắt phế quản hồi phục hoàn toàn hoặc một phần. Triệu chứng và dấu hiệu bao gồm khó thở, tức ngực, ho, thở khò... đọc thêm và để xác định sự biến đổi lưu lượng thở trong ngày.

Việc phân tích các chỉ số này phụ thuộc vào sự nỗ lực tốt của bệnh nhân, thường được cải thiện bằng cách hướng dẫn trong thời gian thực hiện. Các biểu đồ hô hấp chấp nhận được cần có:

  • Sự khởi đầu tốt của phép đo [ví dụ, sự thở ra nhanh và hết sức]

  • Không ho

  • Đường cong mềm mại

  • Quá trình thở ra không bị kết thúc sớm [ví dụ: thời gian thở ra tối thiểu là 6 giây mà không thay đổi về thể tích trong 1 giây cuối]

Sự thay đổi trong các lần thực hiện lặp lại có thể được chấp nhận trong 5% hoặc 100 mL so với các lần thực hiện khác. Các kết quả không đạt được các tiêu chuẩn tối thiểu này cần phải được xem xét cẩn thận.

Thể tích phổi

Thể tích phổi được đo bằng cách xác định dung tích cặn chức năng [FRC]. FRC là lượng không khí còn lại trong phổi sau khi thở ra bình thường. Tổng dung tích toàn phổi [TLC] là lượng khí chứa trong phổi sau khi hít vào tối đa.

Thể tích phổi bình thường.

ERV = thể tích dự trữ thở ra; FRC = dung tích cặn chức năng; IC = dung tích hít vào; IRV = thể tích dự trữ hít vào; RV = thể tích khí cặn; TLC = dung tích toàn phổi; VC = dung tích sống; VT= thể tích khí lưu thông.

FRC = RV + ERV; IC = VT + IRV; VC = VT+ IRV + ERV.

FRC được đo bằng cách sử dụng các kỹ thuật pha loãng khí hoặc một thiết bị đo phế thân ký [cách này chính xác hơn ở những bệnh nhân có giới hạn luồng không khí và khí cạm].

Kỹ thuật pha loãng khí bao gồm

  • Kỹ thuật rửa trôi nitơ

  • Kỹ thuật cân bằng heli

Với kỹ thuật rửa trôi nitơ, bệnh nhân thở ra tới FRC và sau đó hít thở từ một máy đo hô hấp ký có chứa oxy 100%. Thử nghiệm kết thúc khi nồng độ nitơ thở ra bằng không. Thể tích khí nitơ thở ra thu được bằng 81% lượng FRC ban đầu.

Với kỹ thuật cân bằng heli, bệnh nhân sẽ thở ra FRC và sau đó được kết nối với một hệ thống khép kín chứa các lượng khí heli và oxy đã biết. Nồng độ heli được đo cho đến khi nó tương đương giữa thì hít vào và thở ra, tức là nó đã cân bằng với thể tích khí trong phổi, từ đó có thể ước tính thể tích này từ sự thay đổi nồng độ khí heli.

Cả hai kỹ thuật này đều có thể đánh giá FRC thấp hơn thực tế bởi vì chúng chỉ đo được thể tích phổi có sự thông khí. Ở những bệnh nhân bị hạn chế thông khí nghiêm trọng, một lượng đáng kể thể tích bẫy khí có thể thông khí rất kém hoặc hoàn toàn không có thông khí.

Phế thân ký sử dụng định luật Boyle để đo thể tích khí nén trong lồng ngực và phương pháp này chính xác hơn các kỹ thuật pha loãng khí. Trong khi ngồi trong một hộp kín, bệnh nhân sẽ cố gắng hít vào từ một ống kín, bắt đầu từ FRC. Khi thành ngực nở ra, áp suất trong hộp kín tăng lên. Biết được thể tích hộp trước khi hít vào và áp suất trong hộp trước và sau khi nỗ lực hít vào cho phép tính toán sự thay đổi thể tích hộp, nó phải bằng sự thay đổi thể tích phổi.

Biết FRC cho phép phổi được chia thành các phần thể tích có thể đo được bằng phép đo hô hấp ký hoặc có thể tính toán [xem hình ]. Thông thường FRC đại diện cho khoảng 40% TLC.

Biểu đồ lưu lượng - thể tích

Ngược lại với đồ thị hô hấp ký, hiển thị luồng không khí [theo Lít] theo thời gian [theo giây], biểu đồ lưu lượng - thể tích thể hiện lưu lượng khí [Lít/giây] liên quan đến thể tích phổi [theo Lít] khi hít vào hết sức sau khi thở ra hết sức [thể tích khí cặn [RV]] và khi thở ra hết sức sau khi hít vào hết sức [TLC]. Ưu điểm chính của biểu đồ lưu lượng thể tích là nó có thể cho thấy luồng không khí phù hợp với thể tích phổi cụ thể hay không. Ví dụ, luồng khí thở bình thường chậm hơn khi thể tích phổi thấp vì lực co thắt đàn hồi thấp hơn ở khi thể tích phổi thấp hơn. Bệnh nhân bị xơ phổi có thể tích phổi thấp và luồng khí thở của họ có xu hướng giảm nếu đo đơn độc. Tuy nhiên, khi luồng khí thở được thể hiện dưới dạng một hàm số của thể tích phổi, rõ ràng luồng khí thở thực sự cao hơn bình thường [do đặc tính đàn hồi tăng lên của phổi bị xơ].

Biểu đồ lưu lượng - thể tích.

[A] Bình thường. Đường cong biểu diễn trong thì hít vào có tính đối xứng và lồi. Đường biểu diễn thở ra là đường tuyến tính. Lưu lượng khí tại điểm giữa của dung tích hít vào và lưu lượng khí tại điểm giữa của dung tích thở ra thường được đo và so sánh. Lưu lượng khí hít vào tối đa ở 50% dung tích sống gắng sức [MIF 50% FVC] lớn hơn lưu lượng khí thở ra tối đa ở 50% FVC [MEF 50% FVC] do có sự nén khí động học của đường thở xảy ra trong quá trình thở ra.

[B] Rối loạn thông khí tắc nghẽn [ví dụ: khí phế thũng, hen suyễn]. Mặc dù tất cả các lưu lượng thở bị giảm đi, thời gian thở ra kéo dài hơn và chiếm ưu thế, MEF

Chủ Đề